top of page

I. ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC TIẾP QUẢN, XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG, KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH, CHĂM LO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN (1975-1977).

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam giành được thắng lợi hoàn toàn, chiến tranh đã chấm dứt, hòa bình được lập lại trên cả nước. Thắng lợi toàn vẹn và vững chắc của sự nghiệp độc lập và thống nhất Tổ quốc đã đưa cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời bình. Từ sau ngày chiến thắng tháng 4 lịch sử, quân và dân Củ Chi lại tiếp tục phát huy bản chất và truyền thống cách mạng “Đất thép thành đồng”, không ngại hy sinh gian khổ, kiên quyết thực hiện những nhiệm vụ quan trọng do Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đề ra nhằm phát huy thắng lợi, ổn định từng bước vùng mới giải phóng, giải quyết các vấn đề sau chiến tranh, nhanh chóng triển khai công tác tiếp quản, đồng thời chuyển hướng mọi mặt công tác cho phù hợp với tình hình mới.

Ngay sau ngày huyện Củ Chi được giải phóng (29/4/1975) cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang và lực lượng cách mạng trong huyện đã nhanh chóng triển khai lực lượng tiếp quản các căn cứ quân sự, các công sở và dinh thự của chế độ ngụy quyền Sài gòn. Đồng thời tiến hành thu hồi và bảo quản toàn bộ vũ khí, kho tàng, máy móc, các phương tiện chiến tranh của địch để lại.

Ngày 3/5/1975, Uỷ ban Quân quản thành phố Sài gòn- Gia Định được thành lập. Tiếp sau đó đã thành lập ủy ban nhân dân cách mạng quận. Ngay sau đó, trong tháng 6 và tháng 7 năm 1975, Ban Thường vụ Thành ủy đã lần lượt ký các quyết định chỉ định 21 Ban chấp hành lâm thời Đảng bộ quận trong đó có quận Củ Chi do đồng chí Nguyễn Văn Luân giữ chức vụ bí thư quận ủy. Cùng lúc đó, ủy ban nhân dân cách mạng quận cũng được thành lập do đồng chí Nguyễn Văn Thắng làm chủ tịch.

Nhiệm vụ trọng tâm của Quận ủy Củ Chi trong giai đoạn này là: Tập trung xây dựng hệ thống Đảng, chính quyền và các đoàn thể từ  Quận đến xã ấp; phát triển lực lượng công an, bộ đội, du kích; tổ chức cho các đối tượng ngụy quân, ngụy quyền ra trình diện; nhanh chóng ổn định cuộc sống cho nhân dân, cứu đói cho các hộ dân gặp khó khăn; phục hồi sản xuất vv… Yêu cầu trước mắt là ổn định tình hình, khôi phục cải tạo quận một cách toàn diện, quan trọng hơn hết là khôi phục cải tạo nền kinh tế để có được cơ sở bảo đảm cho quận phát triển thuận lợi trong chặng đường đầu khi mới được giải phóng.

Được sự lãnh đạo trực tiếp của Thành ủy và Uỷ ban quân quản thành phố, trong những ngày tháng đầu sau giải phóng, Đảng bộ Củ Chi dồn sức thực hiện 3 công tác lớn:

- Truy quét tàn binh địch, trấn áp bọn phản cách mạng thiết lập trật tự trị an ở địa phương.

- Xây dựng chính quyền cách mạng, chủ yếu là chính quyền cách mạng ở cơ sở và các đoàn thể quần chúng.

- Ổn định đời sống nhân dân, cứu tế đồng bào thiếu đói, giúp dân hồi cư về nơi ở cũ.

Nhờ sự chỉ đạo sát, đúng của Đảng bộ, sự nỗ lực của tất cả đảng viên, đoàn viên, biết dựa và phát huy đúng khả năng cách mạng to lớn của quần chúng, nên chỉ trong một thời gian ngắn quận đã ổn định được tình hình chính trị và từng bước xây dựng tốt chính quyền cách mạng, chăm lo đời sống nhân dân giải quyết được một phần khó khăn của quận lúc đó. Đảng bộ đã thực hiện tốt chính sách hòa hợp dân tộc, làm cho mọi người đều muốn cống hiến dù ít, dù nhiều vào thắng lợi chung của Đảng bộ.

Về công tác truy quét tàn binh địch, trấn áp bọn phản cách mạng.

Sau ngày giải phóng, trên địa bàn huyện Củ Chi có trên 8.000 ngụy quân, ngụy quyền tan rã tại chổ, hàng chục chủ chứa xì ke, cờ bạc, hàng trăm gái mại dâm… và hàng ngàn người sống lang thang không nhà cửa ở các địa phương khác đến.

Ngày 8 tháng 5 năm 1975, Hội nghị Thường trực Quân ủy Miền mở rộng họp và đã ra nghị quyết về một số công tác trước mắt, nghị quyết xác định nhiệm vụ của lực lượng vũ trang trong tình hình mới, trước mắt phải căn cứ vào ba chức năng của quân đội là: đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất. Căn cứ vào tình hình thực tiễn của từng đơn vị mà cấp ủy, chỉ huy đơn vị, vận dụng các nhiệm vụ trên cho phù hợp.

Cụ thể là tiếp tục truy lùng, truy quét địch, trấn áp các lực lượng phản động để bảo vệ thành quả của cách mạng. Đồng thời, phải sẳn sàng chiến đấu đánh địch còn phá rối bất luận lúc nào, ở đâu, trong phạm vi mình phụ trách để bảo vệ chính quyền, bảo vệ tài sản, cơ sở vật chất kỹ thuật, kho tàng… nói chung.

Lực lượng ngụy quân, ngụy quyền, tình báo, cảnh sát của địch sau năm 1975, ở Củ Chi mà ta nắm được có 5.671 tên, trong đó ngụy quân (cấp úy có 217 tên, hạ sĩ quan, binh sĩ: 5.287 tên), ngụy quyền tính từ cấp xã trở lên có (cấp xã: 140 tên, cấp tỉnh: 5 tên, cấp trung ương: 2 tên). Trên địa bàn còn có một vài tổ chức phản động đang nhen nhóm hoạt động. Trong thời gian này một số ngụy quân, ngụy quyền chưa ra trình diện, chủ yếu là bọn sĩ quan ác ôn có nhiều nợ máu với nhân dân, các sắc lính nguy hiểm, lực lượng cảnh sát đặc biệt. Địch lợi dụng những vùng tôn giáo phức tạp, vùng kênh rạch sông nước, những vùng giáp ranh của huyện để ẩn náu và hoạt động. Những thủ đoạn hoạt động chủ yếu của chúng lúc này là bằng mọi cách tổ chức lực lượng bám trong dân và trong rừng, đẩy nhanh các hoạt động nhỏ lẽ để tập trung, thu hút lực lượng và gây thanh thế, tiếng vang trên một số vùng trọng điểm. Những hình thức chủ yếu của chúng là ám sát cán bộ, gài mìn phá hoại, tung tin thất thiệt, tuyên truyền xuyên tạc các chủ trương, chính sách của ta.

Thực hiện chỉ thị của Quân ủy Miền và của Thành ủy căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương, Quận ủy chỉ đạo thực hiện 5 nhiệm vụ cấp bách sau:

1- Khẩn trương quản lý làm trong sạch địa bàn, truy quét tàn quân, quản huấn và đưa đi cải tạo ngụy quân, ngụy quyền.

2- Tháo gỡ bom mìn, giải phóng đất đai cho nhân dân về đất cũ sản xuất xây dựng cuộc sống mới.

3- Củng cố và xây dựng lực lượng sẵn sàng chiến đấu.

4- Giải quyết các mặt chính sách, thương binh, liệt sĩ và hậu phương quân đội.

5- Tổ chức đời sống sinh hoạt cho bộ đội xuất phát từ nhiệm vụ, yêu cầu thực tế dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ quân sự thành phố mà trực tiếp là Quận ủy Củ Chi.

Chỉ trong một thời gian ngắn, thực hiện chỉ thị của Quân ủy Miền, Quận đội Củ Chi đã kết hợp với lực lượng Miền Quân khu và thành phố truy quét toàn bộ tàn quân địch ẩn náu trên địa bàn. Quận đội đã phối hợp chặt chẽ với công an, quân báo, các cơ sở trong dân mở các đợt truy quét dài ngày, liên tục, cắt đứt mọi nguồn tiếp tế lương thực của địch, làm cho địch nhanh chóng tan rã.

Khắc phục hậu quả chiến tranh, phá gỡ bom mìn, giải phóng đất đai để sản xuất xây dựng kinh tế.

Do đặc điểm về địa lý và lịch sử, địa bàn huyện Củ Chi trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là cuộc kháng chiến chống Mỹ. Củ Chi được xác định là một địa bàn chiến lược quân sự quan trọng, là một điểm đụng đầu quyết liệt giữa ta và địch. Chính vì vậy, sau ngày giải phóng, Củ Chi là một địa phương phải chịu những hậu quả chiến tranh tàn khốc mà cả đất và con người phải vượt qua chính sức mình mới hàn gắn được những vết thương do chiến tranh gây ra.

Đại bộ phận vùng đất Củ Chi bị bọn Mỹ- ngụy biến thành vùng trắng, vùng được tự do ném bom và bắn phá. Hàng trăm ngàn tấn bom đạn Mỹ đã dội xuống, hàng vạn lượt căn nhà bị thiêu rụi, ruộng vườn, từng thước đất bị bom pháo cày xới, bị chất độc khai hoang tàn phá. Nhiều gia đình phải ly tán, hầu hết các cơ sở kinh tế của dân bị phá hoại trong chiến tranh.

Sự hy sinh của quân và dân Củ Chi là vô giá, hơn 10.000 con em Củ Chi đã hy sinh, hơn 2.000 thương binh và hàng ngàn người bị thương tích do chiến tranh. Nhân dân Củ Chi trở về vườn đất cũ với đôi bàn tay trắng, cùng nhau khai hoang vỡ đất. Cơ sở kỹ thuật hạ tầng hầu như chẳng có gì nhất là 6 xã phía Bắc vùng giải phóng cũ. Đời sống nhân dân hết sức khó khăn, đa số là nhà tranh vách đất, nhiều hộ ăn độn khoai nần, củ mì, huyện phải xin thành phố hỗ trợ lương thực để cứu đói cho gần 30.000 lượt người.

Dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo sâu sát của Quận ủy và Uỷ ban nhân dân Quận, sự hỗ trợ tích cực của Quân khu 7 và Bộ Tư lệnh thành phố, lực lượng cũ trang Quận kết hợp với các lực lượng của trên đã mở chiến dịch phá gỡ bom mìn với khí thế rầm rộ, tất cả vì cuộc chiến đấu “giành lại màu xanh cho quê hương”, vì sự an toàn, tính mạng của đồng bào. Trong cuộc chiến đấu đầy khó khăn, không những chỉ đổ mồ hôi mà còn có thể phải có sự mất mát, hy sinh, quân dân Củ Chi một lần nữa đã thể hiện lòng dũng cảm sự hy sinh quên mình, trí thông minh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Trên mặt trận phá gỡ bom mìn của Quận có nhiều tấm gương sáng đã được Thành phố khen ngợi.

Chiến sĩ Phan Văn Đu- du kích xã Thái Mỹ với dụng cụ thô sơ đã dũng cảm gỡ 123 trái mìn các loại. Trong lúc làm nhiệm vụ, Phan Văn Đu bị thương cụt hai bàn tay và hỏng một mắt, sau khi chữa lành các vết thương vẫn ra hiện trường động viên đồng đội và truyền lại những kinh nghiệm tháo gỡ mìn của mình cho anh em.

Chiến sĩ Trần Văn Út, quê xã Tân Phú Trung, mới dứt cơn sốt rét, người chưa được khỏe đã xung phong đi gỡ mìn. Anh đã anh dũng hy sinh khi gỡ đến trái mìn thứ 127.

Nữ du kích Huỳnh Thị Lượm, xã Bình Mỹ, đã kiên trì thuyết phục gia đình để được đi học kỹ thuật gỡ mìn.Với quyết tâm cao, với tình yêu quê hương sâu sắc, Huỳnh Thị Lượu đã chỉ huy trung đội khắc phục nhiều khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: giải phóng khu vực chốt Trung Hòa và Tháy Mỹ, gỡ được 13.500 quả mìn. Riêng chị gỡ được 376 quả mìn an toàn.

Chỉ tính 3 năm đầu trong chiến dịch phá gỡ bom mìn, lực lượng bộ đội, du kích Quận Củ Chi cùng với lực lượng của trên đã tháo gỡ gần 88.000 quả bom mìn các loại, phá nổ gần 7.000 quả bom mìn khác, giải phóng hơn 10.000 hecta đất đưa vào sản xuất.

Trong cuộc chiến đấu “giành lại màu xanh cho quê hương” lực lượng vũ trang Củ Chi đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đi đầu trong nhiệm vụ phá gỡ bom mìn của thành phố, góp công lớn giải phóng đất đai đưa vào sản xuất, ổn định đời sống, hàn gắn vết thương chiến tranh trên quê hương “đất thép” sau hàng chục năm bị bom đạn tàn phá.

Tháng 9/1975 Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 24 đã ra nghị quyết, đề ra những nhiệm vụ trước mắt ở miền Nam là:

- Tiếp tục truy quét địch, giữ vũng an ninh trật tự củng cố chính quyền nhân dân ở các cấp, phát huy mạnh mẽ và tôn trọng thực sự quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.

- Xóa bỏ giai cấp tư sản mại bản, xóa bỏ tàn dư giai cấp địa chủ phong kiến, giải quyết tốt tranh chấp ruộng đất trong nội bộ nông dân.

- Đẩy mạnh khôi phục phát triển sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, cải tiến hoạt động lưu thông phân phối, phát triển mạnh thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, chống đầu cơ tích trữ ổn định thị trường, tiếp tục ổn định đời sống nhân dân.

Triển khai thực hiện Nghị quyết 24 của Trung ương (khóa III) Thành ủy chỉ đạo các quận đặt trọng tâm thực hiện là chăm lo đời sống quần chúng, giải quyết công ăn việc làm, khôi phục phát triển sản xuất, đưa quần chúng đi xây dựng vùng kinh tế mới, giản dân ra vùng ven, đấu tranh chống đầu cơ tích trữ, ổn định giá cả thị trường.

Sau khi học tập Nghị quyết 24 của Trung ương (khóa III). Song song với việc cứu đói, công tác trọng tâm của Đảng bộ Củ Chi được xác định là: khôi phục sản xuất, giải quyết công ăn việc làm cho người thất nghiệp vừa nhằm huy động năng lực làm ra của cải vật chất cho xã hội, vừa có ý nghĩa giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, chống địch phá hoại, khẳng định tính chất ưu việt của chế độ. Phương hướng chung của huyện là đưa lao động vào sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các hợp tác xã, tổ sản xuất nông nghiệp, khuyến khích hồi hương lập nghiệp, ổn định cuộc sống cho trên 400 hộ gia đình từ nội thành đến Củ Chi xây dựng vùng kinh tế mới. Với sự nỗ lực của Đảng bộ và chính quyền, đến năm 1977 huyện đã tạo điều kiện cho trên 40.000 người hồi hương về làng quê cũ ổn định đời sống, ổn định cuộc sống cho hàng ngàn người từ nội thành đến Củ Chi lập nghiệp, đã cơ bản khôi phục và phát triển sản xuất giải quyết một phần quan trọng nạn thất nghiệp do chế độ cũ để lại. Dưới sự lãnh đạo của Đảng các tầng lớp nhân dân trong huyện đã phát huy tinh thần tự lực, tự cường, khắc phục khó khăn để phục hồi và phát triển sản xuất.

Về khôi phục và phát triển nông nghiệp: Quận ủy chủ trương đẩy mạnh công tác nông nghiệp bằng các chương trình thủy lợi, khai hoang, xây dựng khu kinh tế mới, xây dựng nông trường, các tập đoàn sản xuất vv… Hưởng ứng chủ trương của Quận ủy, nhân dân Củ Chi đã sôi nổi làm thủy lợi, ra sức khai hoang phục hóa, đưa diện tích canh tác phát triển rất lớn so với trước ngày giải phóng, chỉ diện tích đất được khai hoang phục hóa đã lên đến trên 10.000 hecta.

Khuyến khích, vận động và giúp đỡ những người thất nghiệp, những người lâu nay vì hoàn cảnh chiến tranh phải xa rời đồng ruộng trở về quê cũ, và đi phục hóa, khai hoang, lập vùng kinh tế mới.

Bên cạnh việc khai hoang tăng vụ sản xuất nông nghiệp để giải quyết nhu cầu lương thực, thực phẩm cho người dân thì công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp được chú trọng sắp xếp và tổ chức lại. Trong giai đoạn này huyện chủ yếu vận động và tập hợp các cơ sở thủ công của tư nhân thành các tổ sản xuất tập thể, từng bước cải tạo và phát triển các ngành nghề truyền thống như: bánh tráng, may tre lá, ép dầu phộng với kỹ thuật thô sơ. Tại các đơn vị này người lao động được hướng dẫn và phát triển ngành nghề, một mặt giải quyết việc làm cho một bộ phận bị thất nghiệp, mặt khác phục vụ cho công cuộc cải tạo và phát triển công nghiệp.

II. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ HUYỆN CỦ CHI LẦN THỨ I VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CẢI TẠO, XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI (1977- 1979).

Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12/1976) được sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Thành ủy về việc tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ các cấp. Trong bối cảnh chung ấy, Đại hội đại biểu Đảng bộ Huyện Củ Chi lần thứ nhất được tiến hành từ ngày…./…./ 1977 đến ngày …./…../1977 tại Trung Tâm Văn hóa Huyện. Dự Đại hội có…………. đại biểu chính thức thay mặt cho …….. đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại biểu đã nghe trình bày và thảo luận nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh.

Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố, Đại biểu đã thảo luận các văn kiện trình Đại hội Đảng bộ Huyện Củ Chi, đóng góp nhiều ý kiến về mặt tổ chức, nội dung văn kiện và biện pháp thực hiện.

Đánh giá những thành tựu mà Đảng bộ và nhân dân huyện Củ Chi đã giành được trong 2 năm đầu sau giải phóng. Báo cáo nêu rõ, Đảng bộ và nhân dân Củ Chi đã giữ vững và ngày càng ổn định an ninh chính trị, trật tự xã hội đã kịp thời giải quyết những vấn đề cấp bách về kinh tế và trong đời sống xã hội.

Tuy nhiên trên bước đường đi lên, Đảng bộ huyện Củ Chi đang đứng trước nhiều trở ngại lớn.

Về khách quan:

- Quan hệ sản xuất phi xã hội chủ nghĩa, nền sản xuất nhỏ, cá thể là những trở ngại lớn cho việc đi vào con đường làm ăn tập thể, tổ chức lại sản xuất theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

- Những hậu quả của chiến tranh xâm lược và chủ nghĩa thực dân mới còn rất lớn trên các mặt kinh tế đời sống, xã hội.

- Giai cấp tư sản và các thế lực phản động chưa từ bỏ âm mưu phá hoại, do đó an ninh chính trị, trật tự xã hội vẫn phải tiếp tục giải quyết trong nhiều năm.

Về chủ quan:

- Đảng bộ còn lúng túng trong chỉ đạo tình hình nhiệm vụ mới, do chưa được học tập đầy đủ về đường lối chính sách nên nhiều cán bộ đảng viên chưa nhận thức rõ về tính chất của cuộc đấu tranh giai cấp giữa 2 con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.

- Trình độ quản lý kinh tế, quản lý xã hội của đội ngũ cán bộ đảng viên trong huyện còn rất hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu của tình hình nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.

- Đội ngũ cán bộ, đảng viên hăng hái, tích cực giữ được phẩm chất, tận tụy với công việc nhưng có một số ít thiếu tinh thần trách nhiệm, giảm sút ý thức tổ chức kỷ luật, chủ quan mất cảnh giác cách mạng, thoái hóa, biến chất, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.

- Quần chúng nhân dân nói chung là tốt, nhưng chưa được phát huy đúng mức quyền làm chủ về kinh tế, chính trị, xã hội, quần chúng còn nhiều tâm tư trước khó khăn về làm ăn, đời sống, giá cả, về thái độ thiếu đúng đắn của một số cán bộ. Đồng thời các cấp ủy Đảng, chính quyền chưa quan tâm tạo mọi điều kiện cho quần chúng thực hiện quyền làm chủ.

Với truyền thống cách mạng của một Đảng bộ đã khắc sâu những dấu ấn sâu sắc trong lòng nhân dân, Đại hội Đảng bộ Củ Chi đã quán triệt tinh thần cơ bản của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ I và căn cứ vào đặc điểm, vị trí của huyện, những thành tựu và thiếu sót đã được thảo luận tại Đại hội, Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ chung của Đảng bộ đến năm 1980 là: “Trên cơ sở nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng, tập trung nỗ lực tiến hành cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa đồng thời tổ chức lại nền sản xuất theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, phân bố lại lực lượng lao động một cách hợp lý nhằm sử dụng hết lực lượng lao động vào công cuộc xây dựng huyện, xây dựng thành phố, kết hợp với giải quyết nạn thất nghiệp và thanh toán tệ nạn xã hội, xây dựng và tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội từng bước xây dựng huyện có cơ cấu kinh tế nông – công nghiệp, ra sức khôi phục và đẩy mạnh sản xuất, cải tiến lưu thông phân phối, từng bước ổn định đời sống nhân dân, cải tạo và xây dựng văn hóa mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, đề cao cảnh giác cách mạng, củng cố quốc phòng địa phương vững mạnh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội.

Để thực hiện được phương hướng mục tiêu nói trên, Đại hội đã đề ra 6 mặt công tác lớn phải thực hiện trong 2 năm 1977- 1978 của huyện là:

1- Cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, khôi phục và phát triển kinh tế.

2- Tăng cường công tác quản lý kinh tế, quản lý xã hội, ổn định đời sống nhân dân.

3- Đẩy mạnh công tác tư tưởng văn hóa, giáo dục, y tế.

4- Củng cố bộ máy chính quyền huyện, xã, xây dựng lực lượng an ninh, quân sự vững mạnh.

5- Phát huy vai trò nòng cốt của các đoàn thể, đẩy mạnh phong trào hành động cách mạng của các tầng lớp nhân dân.

6- Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên, cải tiến lề lối làm việc.

Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ huyện (nhiệm kỳ 1977- 1979) gồm 27 đồng chí do đồng chí Nguyễn Văn Luân, Bí thư.  Danh sách Ban chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ I có:

1- Đồng chí Nguyễn Văn Luân    : Bí thư

2- Đồng chí Nguyễn Văn Ngó     : Phó bí thư, Chủ tịch UBND Huyện

3- Đồng chí Trần Văn Nguyên    : Phó bí thư thường trực

4- Đồng chí Tạ Quang Huy         : Uỷ viên TV, Trưởng Ban tổ chức

5- Đồng chí Lê Thanh Long        : Uỷ viên TV, Phó chủ tịch UBND huyện

6- Đồng chí Phạm Tấn Thành      : Uỷ viên TV, Chỉ huy trưởng Huyện đội

7- Đồng chí Nguyễn Văn Đường : Uỷ viên TV, Trưởng công an huyện

8- Đồng chí Trần Văn Hái           : Uỷ viên TV, Trưởng Ban Tuyên huấn

9- Đồng chí Lê Thị Vân               : Uỷ viên TV phụ trách Dân vận

10- Đồng chí Hồ Văn Son

11- Đồng chí Nguyễn Văn Định

12- Đồng chí Châu Văn Sến

13- Đồng chí Lê Văn Hoàng

14- Đồng chí Thái Văn Trung

15- Đồng chí Lê Quang Sử

16- Đồng chí Võ Thái Hòa

17- Đồng chí Hồ Hữu Nhạc

18- Đồng chí Hà Thị Hồng Vân

19- Đồng chí Nguyễn Bá Khuynh

20- Đồng chí Lê Văn Đổ

21- Đồng chí Hồ Trọng Nhân

22- Đồng chí Lâm Văn Phần

23- Đồng chí Nguyễn Văn Đức

24- Đồng chí Lê Văn Nón

25- Đồng chí Võ Văn Phần

26- Đồng chí Nguyễn Văn Bốn

27- Đồng chí Nguyễn Văn Hoàng

 

Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Củ Chi lần thứ nhất thể hiện sự đoàn kết nhất trí cao của Đảng bộ trong công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố và huyện đề ra. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện đã nêu rõ quyết tâm: “Phải giữ vững thành quả cách mạng mà Đảng bộ và nhân dân Củ Chi đã đổ nhiều xương máu mới giành được”. Toàn huyện tiếp tục tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh khai hoang phục hóa, tổ chức lại sản xuất, giải quyết nạn đói và thất nghiệp. Tăng cường giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc phòng, tạo nền tảng xây dựng huyện có cơ cấu kinh tế nông công nghiệp.

Sau 2 năm khôi phục và phát triển kinh tế, Đảng bộ huyện Củ Chi đã giành được những thắng lợi bước đầu to lớn trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quán triệt Nghị quyết Đại hội IV của Đảng, nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ nhất, Đảng bộ huyện Củ Chi triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ nhất với những đặc điểm thuận lợi và khó khăn như sau:

- Đây là lần đầu tiên Đảng bộ Củ Chi xây dựng một nghị quyết đề ra phương hướng, nhiệm vụ nhiều năm và trên tất cả các mặt công tác, những nhiệm vụ và mục tiêu đó nhằm tiếp tục củng cố hệ thống chuyên chính vô sản, thực hiện công việc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên địa bàn huyện. Đây là một việc làm rất mới đối với Đảng bộ, đường lối chủ trương của Đảng đã được xác định ở Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV và Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ nhất, nhưng chưa được cụ thể hóa, nhất là công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa trong khu vực nông nghiệp.

- Nhận thức và vận dụng chủ trương của Đảng vào tình hình thực tế của địa phương chưa nhuần nhuyển, một số chỉ tiêu còn nặng vào sự chi viện của trên, vượt quá khả năng phấn đấu của địa phương. Mặt khác, tư liệu sản xuất còn cá thể, đang là một khó khăn lớn trong quá trình thực hiện kế hoạch kinh tế tập thể.

Hai năm khôi phục kinh tế, huyện đã xây dựng được một số cơ sở làm nền móng cho những yếu tố xã hội chủ nghĩa, thông qua việc tổ chức các tổ đoàn kết, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, các tổ hợp thủ công nghiệp nhưng nền kinh tế nói chung của huyện vẫn là sản xuất nhỏ, cá thể lệ thuộc.

Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc làm cho tình hình đất nước ta càng thêm khó khăn, phức tạp đã tác động rất lớn đến việc thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện. Lợi dụng tình hình đó bọn xấu ngóc đầu dậy chống phá ta, bọn gian thương tiếp tục đầu cơ, tích trữ, nâng giá, phá giá.

Tất cả những vấn đề trên đã làm cho tình hình thêm phức tạp, đời sống công nhân, viên chức, bộ đội và nhân dân lao động ngày càng khó khăn.

Được sự lãnh đạo trực tiếp của Thành ủy, Đảng bộ Củ Chi tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng của quê hương “Đất thép thành đồng” vượt qua khó khăn thử thách thực hiện Nghị quyết Đảng bộ và các chủ trương nghị quyết của trên với tinh thần quyết tâm nỗ lực rất cao, tạo được những chuyển biến mạnh trong nhiều phong trào cách mạng. Đảng bộ huyện Củ Chi xác định: trong giai đoạn 1977- 1979 cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là công tác có tầm quan trọng hàng đầu trong toàn bộ công tác của Đảng bộ. Vì vậy Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo, lãnh đạo công tác cải tạo quan hệ sản xuất cũ xây dựng quan hệ sản xuất mới gắn với khôi phục và phát triển kinh tế.

- Về cải tạo và xây dựng nông nghiệp: Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ nhất: Đến hết năm 1977 phải tập hợp hết nông dân vào các hình thức tổ đoàn kết sản xuất hoặc tập đoàn sản xuất hay hợp tác xã. Đến năm 1978 củng cố và nâng cao các tổ sản xuất, tập đoàn sản xuất, mở rộng thí điểm hợp tác xã để đến năm 1979 hoàn thành cơ bản hợp tác hóa nông nghiệp.

Thực hiện việc cải tạo quan hệ sản xuất mới, Đảng bộ gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại chủ yếu là vấn đề tư tưởng. Tư tưởng làm ăn tập thể, hợp tác hóa theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa chưa được quán triệt sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tư tưởng tư hữu còn rất nặng nề, tập quán làm ăn cá thể chưa thay đổi nhiều. Do đó, Đảng bộ đã mở nhiều đợt giáo dục tư tưởng trong đảng viên, đoàn viên về yêu cầu, mục đích của việc cải tạo quan hệ sản xuất ở nông thôn. Đảng viên, đoàn viên phải tiên phong, gương mẫu đi vào con đường làm ăn tập thể xã hội chủ nghĩa. Từ đó tuyên truyền giáo dục ra quần chúng nông dân, gây thành một phong trào tham gia làm ăn tập thể, hợp tác sôi nổi rộng rãi.

Một trở ngại khác trong cải tạo quan hệ sản xuất là Đảng bộ còn lúng túng trong việc xác định bước đi cho phù hợp với huyện. Đến tháng 3/1978 theo chủ trương của Thành ủy, Ban vận động hợp tác hóa nông nghiệp huyện mới xác định được bước đi như sau: yêu cầu năm 1978 phổ biến là tập đoàn sản xuất. Có được định hướng, Ban quy hoạch huyện đã khẩn trương tiến hành quy hoạch phân vùng, lập bản đồ thổ nhưỡng của huyện, nắm chắc về đất đai, về lao động từng xã để phục vụ công tác cải tạo và xây dựng nông nghiệp. Với sự cố gắng của huyện, được sự quan tâm của các ban ngành thành phố, phong trào đi vào làm ăn tập thể (chủ yếu là tập đoàn sản xuất) đã phát triển rộng khắp ở các xã với tốc độ nhanh về số lượng, chất lượng cũng được củng cố từng bước. Nhiều tập đoàn bước đầu tổ chức sản xuất đúng với chủ trương, áp dụng những biện pháp khoa học kỹ thuật tiến bộ, thâm canh, cây giống mới, phân bón, tạo được một số mặt điển hình như nâng cao năng suất, bảo đảm nghĩa vụ lương thực đóng góp cho Nhà nước, đào tạo bồi dưỡng được nhiều cán bộ tốt.

Thi hành chỉ thị số 157 của Ban Bí thư và chỉ thị số 43 của Bộ chính trị về việc nắm vững và đẩy mạnh công tác cải tạo nông nghiệp ở miền Nam, huyện Củ Chi đã tiến hành cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp, kết quả sau 3 tháng tiến hành vận động, xã Bình Mỹ thành lập được 17 tập đoàn với trên 90% số số hộ nông dân, 844 ha ruộng, xã Trung An thành lập 12 tập đoàn, gồm 100% số hộ nông dân trong xã và 250 ha ruộng được tập thể hóa.

Tháng 5/1978, huyện đã chỉ đạo thành lập hợp tác xã điểm Quyết Thắng 1 gồm 8 tập đoàn của các ấp 1, 2, 3, 4 sáp nhập lại, quy mô trên 400 ha canh tác.

Tháng 8/1978, tiếp tục thành lập 2 hợp tác xã Tân Mỹ I và Tân Mỹ II quy mô trên 100 ha.

Đến giữa năm 1979 tình hình sản xuất gặp nhiều khó khăn do thiên tai và do ảnh hưởng chiến tranh biên giới Tây Nam, mất mùa, đời sống nhân dân khó khăn, có nhiều tập đoàn sản xuất làm ăn không hiệu quả, nên từ vụ mùa năm 1979, vụ Đông- Xuân 1980, nhiều tập đoàn bị tan rã.

Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa IV), Nghị quyết hội nghị Thành ủy lần thứ 9 (khóa I) và tinh thần chỉ đạo về công tác cải tạo nông nghiệp của đồng chí Mai Chí Thọ- Phó Bí thư Thành ủy. Huyện đã thành lập đoàn cán bộ của huyện cùng với cán bộ thành phố chi viện đã xuống từng xã tổ chức học tập trong nội bộ Đảng, các ban ngành và ngoài nhân dân. Do vậy, tư tưởng cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân có chuyển biến và hăng hái bung ra sản xuất, phong trào làm ăn tập thể tiếp tục được củng cố ở một số nơi, nhưng lẽ tẽ vẫn còn diễn ra nhiều vấn đề căng thẳng, gay gắt.

Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn trong công tác cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng sản xuất mới. Trình độ văn hóa cán bộ tập đoàn còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu. Một số cán bộ quản lý tập đoàn còn thiếu gương mẫu còn chân trong cửa chân ngoài cửa. Ý thức làm chủ tập đoàn, hợp tác của tập đoàn viên, xã viên chưa cao, chưa đề cao tư tưởng tự lực, tự cường, còn có biểu hiện ỷ lại, trông chờ vào trên. Các tập đoàn chưa nghiêm chỉnh thực hiện các chính sách huê lợi, ăn chia phân phối… Bà con tập đoàn viên thiếu phấn khởi. Nhiều người đã làm đơn xin ra, có một số người tự động “xé rào”, trong đó có cả cán bộ, đảng viên.

Đến cuối năm 1979, huyện có 3 hợp tác xã, 122 tập đoàn, trong đó có 20 tập đoàn khá, 36 tập đoàn trung bình, số tập đoàn yếu kém tuy vẫn còn nhưng số lượng ít và so với cuối năm 1978 đã giảm đi rất nhiều.

Cũng tính đến cuối năm 1979, số người, diện tích canh tác đã được tổ chức vào làm ăn tập thể như sau:

- Tổng số hộ 9.312, so với tổng số hộ nông nghiệp (chiếm 32,56%) 28.600 hộ trong đó hợp tác xã 1.312 hộ.

- Diện tích 5.978 ha so với diện tích canh tác của huyện 25.724 ha, trong đó diện tích hợp tác xã 914 ha.

- Về lao động: 18.293 người so với lao động trong nông nghiệp của huyện 52.000 người đạt 32,17%.

Từ tình hình trên cho thấy số hộ, số lao động đã được tổ chức vào tập đoàn với tỷ lệ trên 30% nhưng về diện tích mới chỉ tập thể hóa được 23%. Điều đó chứng tỏ, những hộ có nhiều ruộng đất đi vào tập đoàn, hợp tác xã ít, chủ yếu là những hộ không có ruộng đất, hoặc ít ruộng đất gia nhập tập đoàn, hợp tác xã, ngoài ra những hộ đã đi vào làm ăn tập thể nhưng chưa đưa ruộng đất vào, còn để ngoài làm riêng khá nhiều.

Mục đích của công tác cải tạo nông nghiệp là phát triển sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân nhưng trong quá trình thực hiện Đảng bộ chưa quán triệt và thực hiện tốt việc gắn chặt công tác cải tạo với phát triển sản xuất, còn đơn giản, nôn nóng chạy theo số lượng thiếu đi sâu đi sát, kiểm tra, kịp thời uốn nắn những lệch lạc, khi phát hiện thiếu sót thì chần chừ do dự, thiếu kiên quyết có trường hợp buông lỏng lãnh đạo quản lý. Hơn nữa công tác tuyên truyền về đường lối, chủ trương, chính sách hợp tác xã chưa sâu kể cả trong Đảng và ngoài quần chúng nhất là nông dân lao động.

Chính quyền còn sử dụng biện pháp hành chính, mệnh lệnh, ép buộc nông dân vào tập đoàn với những hình thức khác nhau, chưa thực hiện tốt hình thức để nông dân tự quyết định vào làm ăn tập thể, công tác quản lý tập đoàn còn lỏng lẻo, nhiều chính sách như đất phần trăm, trả huê lợi ruộng đất, phát triển kinh tế phụ gia đình chưa được hướng dẫn rõ ràng và thực hiện nghiêm túc. Những thiếu sót trong lãnh đạo của Đảng bộ đã làm hạn chế kết quả của phong trào cải tạo và xây dựng nông nghiệp của huyện. Từ đó nảy sinh ra những biểu hiện tiêu cực trong nông dân như xin ra khỏi tập đoàn hoặc tự động lấy ruộng ra ngày càng nhiều. Tuy nhiên với những kết quả đạt được bước đầu cũng đã tạo nên sự chuyển biến có ý nghĩa cách mạng sâu sắc, làm cơ sở cho việc củng cố phát triển vững chắc phong trào hợp tác hóa của huyện trong những năm sau.

Sau khi được giải phóng, thực trạng trắng tay về cơ sở vật chất kỹ thuật khiến công tác thông tin tuyên truyền gặp nhiều khó khăn, trong lúc tình hình đang biến chuyển mới, nhân dân đang đòi hỏi hàng loạt thông tin về đường lối chính sách, về các chủ trương biện pháp xây dựng kinh tế- xã hội. Bằng các hình thức hội họp, mít tinh, các buổi nói chuyện thời sự, các buổi phát loa ở trong từng xóm, ấp… mà lực lượng tuyên truyền là cán bộ, chiến sĩ, là các tổ, đội thanh niên xung kích… đã tạo nên khí thế sôi nổi, ổn định dần dần tư tưởng và cuộc sống của nhân dân.

Năm 1978 đài truyền thanh huyện được xây dựng với một số loa.

Qua năm tháng, rút kinh nghiệm, các công tác Đảng, chính quyền, đoàn thể từng bước được củng cố. Một số thiết chế thông tin đại chúng như đài, trạm truyền thanh, đội thông tin lưu động huyện, xã… được xây dựng đưa vào hoạt động. Hoạt động văn nghệ quần chúng cũng góp phần to lớn vào công cuộc cải tạo nền văn hóa cũ, xây dựng nền văn hóa cách mạng.

Kết quả của hoạt động ngành văn hóa thông tin, giáo dục tư tưởng trong giai đoạn 1977 – 1979 đã tạo khí thế mới cho phong trào cách mạng của quần chúng, chuyển hướng tư tưởng quần chúng theo kịp với yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới. Đã đẩy lùi một bước văn hóa ngoại lai, phản động, từng bước tạo nên bộ mặt văn hóa mới của huyện.

- Về giáo dục: Trước năm 1975, Củ Chi trong điều kiện chiến tranh ác liệt, việc học tập của con em nhân dân trong huyện hết sức khó khăn kể cả ở vùng tam chiếm lẫn vùng giải phóng. Mặt khác đây là vùng đất nghèo nàn, nên mặt bằng học vấn của người dân địa phương còn thấp so với nhiều huyện ngoại thành khác của thành phố. Đảng bộ đã tập trung vừa lãnh đạo cải tạo nhà trường cũ thành nhà trường mới xã hội chủ nghĩa theo tinh thần chỉ thị 221-CT/TW và 47-CT/TW về công tác giáo dục ở các tỉnh phía Nam vừa đẩy mạnh phong trào bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ, bổ túc văn hóa vừa xây dựng trường lớp để con em nhân dân học tập. Thực hiện tốt phương châm gắn liền nhà trường với lao động sản xuất, giáo dục giáo viên chế độ cũ, tăng cường bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý ngành giáo dục nên bước đầu xây dựng được cơ sở chính trị tốt trong nhà trường.

Để đáp ứng kịp thời cho năm học mới 1975- 1976, nhân dân đã cùng với chính quyền địa phương khẩn trương xây dựng 141 phòng học bằng tranh tre tại nhiều điểm dân cư, thành phố đầu tư xây dựng 24 phòng học bằng khung nhà lắp ghép, tiếp nhận tất cả con em trong độ tuổi đi học vào trường. Năm học 1976- 1977 thành phố đầu tư xây dựng thêm 41 phòng học, cơ quan UNICEF giúp xây dựng 10 phòng, đều là bán kiên cố; năm học 1977- 1978 thành phố xây 45 phòng, huyện xây 96 phòng, nhân dân đóng góp xây dựng 104 phòng học bằng vật liệu nhẹ, năm học 1978- 1979 thành phố xây 14 phòng, cơ quan UNICEF tặng 8 phòng, huyện đầu tư xây 46 phòng… Đến năm học 1979- 1980 riêng ngành học phổ thông cơ sở đã có 492 phòng học. Tuy nhiên vào năm học này toàn huyện có 41.100 học sinh cấp I và cấp II nên vẫn còn tình trạng thiếu lớp và vì vậy vẫn còn đến 19 lớp còn phải học ca trưa.

Song song với việc xóa mù chữ việc bổ túc văn hóa, đặc biệt cho cán bộ, thanh niên trong huyện cũng rất được quan tâm. Tháng 1/1978 thành lập Trường Bổ túc văn hóa dân chính (có đủ 3 cấp I, II, III) và tháng 8/1978 thành lập Trường bổ túc văn hóa tập trung (có đủ 3 cấp 1, II, III).

Tháng 3/1978 cùng với sự thành lập phòng bảo vệ Bà mẹ và trẻ em, ngành nuôi dạy trẻ huyện Củ Chi mới bắt đầu hoạt động, chỉ trong một thời gian ngắn, cuối năm 1978 huyện đã có được 11 nhà trẻ với 28 cô nuôi dạy 170 cháu đạt 105% kế hoạch đề ra. Đến năm 1979 toàn huyện có 16 nhà trẻ (43 cô, 288 cháu) phát triển theo địa bàn sản xuất tập thể, hợp tác xã nông nghiệp lúc bấy giờ và theo cơ quan.

Đối với ngành mẫu giáo, chĩ 5 tháng sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, ngành học mẫu giáo của Củ Chi đã được tổ chức, bước đầu này còn ghép trong các trường phổ thông tại các xã Tân Phú Trung, Tân Thông Hội, Phước Vĩnh An với 22 lớp 840 cháu. Đến năm học 1977- 1978 huyện đã có được 18 trường mẫu giáo ở 18 xã của huyện.

- Về y tế: Trong công tác khám và chữa bệnh cho nhân dân, Đảng bộ đã chỉ đạo ngành y tế xây dựng mạng lưới y tế chăm lo sức khỏe đời sống nhân dân.

Với tinh thần đền ơn đáp nghĩa và sự quan tâm đặc biệt đến sức khỏe nhân dân, nhất là sau một cuộc chiến tranh hết sức khốc liệt, huyện Củ Chi với sự giúp đỡ lớn lao của thành phố Hồ Chí Minh, sự đóng góp cả tiền bạc lẫn công sức của nhân dân trong huyện và sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, đã đầu tư kinh phí để nhanh chóng trang bị thêm phương tiện và y cụ, đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn và xây dựng cơ sở vật chất cho ngành y tế của huyện nhà. Đến năm 1978, mạng luới y tế của huyện đã được tổ chức đều khắp đến các xã, thiết lập mạng lưới y tế cơ quan, xí nghiệp, nông trường đồng thời tăng cường một bước đáng kể các khu điều trị ở tuyến huyện… Một số công trình xây dựng cơ sở vật chất ngành y tế trong những năm đầu sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng tiêu biểu như: năm 1976, xây bệnh xá Phạm Văn Cội, năm 1977 bằng nguồn kinh phí của UNICEF tài trợ đã nâng cấp phòng khám khu vực An Nhơn Tây thành bệnh viện An Nhơn Tây (chính thức khánh thành và đưa vào hoạt động ngày 2/5/1978); năm 1977 cất 15 trạm y tế xã bằng vật liệu nhẹ (khung gỗ, mái Jibro cinment) và trên cơ sở hoạt động của trạm đã lập được các tủ thuốc dân lập tại một số xã; năm 1978 mở lớp đào tạo y tá tại bệnh viện An Nhơn Tây, lập các chốt cấp cứu tại một số ấp thuộc các xã có địa bàn rộng hoặc có các khu dân cư cách xa trạm y tế xã… Tiếp tục khắc phục tình trạng còn mỏng của mạng lưới y tế và thực hiện chủ trương phòng bệnh hơn chữa bệnh.

Công tác thương binh xã hội được Huyện ủy quan tâm chỉ đạo nên hoạt động có hiệu quả, nhất là chính sách đền ơn đáp nghĩa đối với các gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng.

Như trên đã nói, Củ Chi là một địa phương trong kháng chiến chống Mỹ bị chiến tranh chà xát, tổn thất nhân mạng rất nặng nề. Sau giải phóng, huyện đã chỉ đạo tổ chức lập hồ sơ xác nhận liệt sĩ, thương binh, người có công với cách mạng, qua đó đề nghị khen thưởng và thực hiện các chế độ đúng theo chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, huyện phát động nhân dân và tổ chức liên tục nhiều đợt tìm quy tập mộ liệt sĩ về nghĩa trang của huyện.

Bên cạnh giải quyết những chính sách trên, huyện và xã đã rất quan tâm đến việc học hành của các con em liệt sĩ, đến sức khỏe và công ăn việc làm của các hộ thuộc diện chính sách.

Năm 1977 huyện đã quyết định đầu tư xây dựng nghĩa trang liệt sĩ huyện tại xã An Nhơn Tây trên diện tích 6 ha.

- Trên lĩnh vực an ninh quốc phòng: Đảng bộ đã củng cố và tăng cường lực lượng công an, quân sự ngày càng vững mạnh, đủ sức giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội. Ra sức xây dựng lực lượng công an, lực lượng quân sự địa phương có tinh thần tuyệt đối trung thành với Đảng, với chính quyền và nhân dân lao động.

Trong các năm 1977, 1978, 1979 tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội ở Củ Chi có nhiều diễn biến phức tạp. Do ảnh hưởng của chiến tranh biên giới Tây Nam ngày càng lan rộng trên quy mô lớn, bọn phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh công khai giúp bọn phản động Campuchia đánh ta ở biên giới, kết hợp với chiêu bài “nạn kiều” để gây rối bên trong. Các thế lực thù địch và phản động ngóc đầu dậy chống phá cách mạng bằng nhiều thủ đoạn thâm độc, kín đáo, lợi dụng thời cơ kích động, phá hoại.

Thực hiện chỉ thị của Đảng và Nhà nước, Củ Chi đã ra nghị quyết lãnh đạo triển khai lực lượng vũ trang huyện thực hiện tốt cuộc vận động giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Song song với việc giữ gìn an ninh trật tự xã hội, Đảng bộ đã chú trọng đến việc xây dựng lực lượng công an ngày càng vững mạnh trên các mặt: tuyển dụng, đào tạo, hầu hết các xã công an đều thực hiện tốt nhiệm vụ.

Nhiều đợt sinh hoạt chính trị đã được tổ chức rộng khắp ở tất cả các đơn vị, từ bộ đội địa phương đến các đơn vị dân quân tự vệ các phường, xã, cơ quan, xí nghiệp, trường học. Qua đó, cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang huyện đã nhận thức rõ hiện tình của đất nước, xác định rõ kẻ thù trước mắt và lâu dài, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang huyện trong tình hình mới. Từ đó đã khơi dậy khí thế thi đua thực hiện tốt các chương trình huấn luyện đột kích, báo động kiểm tra, diễn tập hội thao, xây dựng công trình, hoàn chỉnh phương án tác chiến tại chỗ, phương án đánh địch từ xa từ cấp huyện đến cấp xã, cơ quan, xí nghiệp.

Nổi bậc nhất trong thời kỳ đầu cuộc vận động “Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân” ở huyện Củ Chi là trong những tháng đầu năm 1979, trước tình hình chuyển biến mạnh mẽ của cách mạng Campuchia, trong lúc đất nước bạn đang gặp khó khăn, hàng trăm cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang huyện đã tình nguyện đăng ký đi làm nhiệm vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia. Huyện đội đã cử một đại đội bộ đội địa phương huyện sang thành phố Phuôn Pênh giúp Bạn xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng, sau một thời gian, đơn vị đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, được chính quyền và nhân dân bạn tin yêu, qúy mến.

Cũng trong thời gian này, thực hiện lệnh tổng động viên của Nhà nước, hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang huyện Củ Chi đã làm đơn tình nguyện xung phong ra chiến trường biên giới phía Bắc chiến đấu.

Chỉ tính trong thời gian 4 năm cuộc vận động “Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân”, huyện Củ Chi đã giao được 3.621 thanh niên lên đường nhập ngũ (chỉ tiêu thành phố giao 3.407) đạt chỉ tiêu 106,58%, tuyễn được hàng trăm thanh niên xung phong đi phục vụ chiến đấu ở mặt trận biên giới. Lực lượng, dân quân tự vệ huyện phát triển vững mạnh cả về số lượng và chất lượng. Các đại đội, tiểu đoàn dân quân tự vệ đã được huấn luyện cơ bản về quân sự, chính trị, từng bước tham dự hội thao kiểm tra kết quả rèn luyện, nhiều đơn vị cá nhân qua hội thao về kỹ thuật, chiến thuật cá nhân, tiểu đội, trung đội, đạt kết quả khá,  giỏi. Qua đó, lực lượng dân quân tự vệ đã từng bước lớn mạnh, bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương, sẵn sàng hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu, là một lực lượng có quân số dồi dào sẵn sàng bổ sung cho các đơn vị bộ đội địa phương huyện, của thành phố và của quân khu.

Về xây dựng chính quyền: nhận thức được tầm quan trọng của việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động, thi hành nghị quyết 288 và nghị quyết 28 – 29 của Trung ương và Thành ủy. Huyện đã chủ trương thực hiện việc đưa chính quyền ra phê bình trước dân. Qua kiểm điểm trước dân, một số cán bộ, đảng viên công an đã thấy được khuyết điểm, tiếp thu sửa chữa được quần chúng hoan nghênh, qua tự phê bình giữa cán bộ và quần chúng có sự thông cảm, gần gủi nhau hơn, các mặt công tác được quần chúng tự giác thực hiện có hiệu quả hơn.

Huyện đã tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân huyện và Hội đồng nhân dân huyện khóa II đã họp kỳ họp thứ nhất để bầu các chức danh của Uỷ ban nhân dân huyện. Ông Nguyễn Văn Thắng được bầu làm chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, các ông Nguyễn Thành Sậy, Lê Thanh Long, Nguyễn Văn Định, Châu Văn Sến được bầu làm Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện.

Sau hai đợt bầu cử Hội đồng nhân dân cấp huyện và cấp xã, Hội đồng nhân dân các cấp đã đi vào sinh hoạt bàn bạc giải quyết các công việc lớn của huyện, xã. Uỷ ban nhân dân huyện củng cố xây dựng tương đối hoàn chỉnh và có hiệu quả hơn, các phòng ban của chính quyền dần dần hoạt động có nề nếp và khoa học hơn, việc chỉ đạo, sơ kết, tổng kết, thi đua khen thưởng tốt hơn. Uỷ ban Nhân dân các xã qua nhiều lần củng cố, tăng cường, năng lực quản lý và hiệu quả làm việc được nâng lên. Vai trò cấp xã được xác định rõ hơn, bước đầu đi vào phát huy tác dụng, trực tiếp thực hiện trên mọi lĩnh vực sản xuất, xây dựng, cải tạo, nâng cao đời sống nhân dân.

Được sự quan tâm chỉ đạo của Huyện ủy, công tác dân vận và hoạt động của các đoàn thể có nhiều tiến bộ, thể hiện trong công tác phổ biến và làm nòng cốt thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, biến thành phong trào hành động cách mạng sôi nổi liên tục trong các tầng lớp quần chúng. Nổi bật là các phong trào “Ba xung kích” của thanh niên, phong trào “Người phụ nữ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, phong trào “Thi đua sản xuất” của nông dân, phong trào “Vì tuyến đầu tổ quốc” vv… Qua các phong trào cách mạng, các tầng lớp quần chúng ngày càng gắn bó với cách mạng hơn, quần chúng ngày càng tham gia đông đảo vào các tổ chức đoàn thể cách mạng. Tổ chức Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Nông hội, Phụ nữ ở các xã đã phát huy vai trò nòng cốt qua nhiều phong trào như làm thủy lợi, làm phân hữu cơ, nghĩa vụ quân sự, phong trào bình dân học vụ, bổ túc văn hóa. Công tác tổ chức công đoàn cơ sở và giải quyết chế độ, chính sách cho đoàn viên công đoàn đã có sự cố gắng, tiến bộ.

Tiếp tục phát huy chức năng của Mặt trận làm trung tâm đoàn kết tập hợp rộng rãi các tầng lớp quần chúng, chú trọng công tác tôn giáo, trí thức, hoa vận. Mặt trận đã kịp thời phổ biến chủ trương đúng đắn của Đảng trong người Hoa làm cho họ thấy rõ âm mưu xấu xa của giới phản động cầm quyền Bắc Kinh.

Nhờ vai trò và sự lớn mạnh của các đoàn thể, Mặt trận mà nhiều chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước đã thâm nhập vào quần chúng, vận động, tổ chức quần chúng biến nhận thức thành phong trào hành động cách cụ thể.

Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ đã quan tâm giáo dục cho đảng viên, cán bộ về tình hình nhiệm vụ qua từng thời kỳ cách mạng. Qua các đợt học tập nghị quyết của Đảng như: Nghị quyết Đại hội IV của Đảng, có Nghị quyết của Trung ương, Nghị quyết của Thành ủy, các chủ trương của Đảng về cải tạo, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong đảng viên được nâng lên.

III. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ HUYỆN CỦ CHI LẦN THỨ II (11/1979) VỚI SỰ NỖ LỰC KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH CẢI TẠO VÀ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT (1980 – 1983).

Bước vào những năm 1979- 1980 tình hình chung cả nước vừa có hòa bình nhưng lại có thể xảy ra chiến tranh, Củ Chi nằm trên cửa ngõ Tây Bắc của thành phố chỉ cách biên giới Campu chia 30 km, là một trong những trọng điểm đánh phá của địch, nhưng cũng là hậu phương trực tiếp phục vụ cho việc bảo vệ biên giới Tây Nam. Do đó huyện vừa lo xây dựng vừa luôn phải sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu bạo loạn về chính trị và phá hoại kinh tế của địch vừa sẵn sàng chiến đấu, phục vụ chiến đấu. Từ năm 1975 đến 1979 huyện đã giành được thắng lợi ở một số mặt công tác đặc biệt là khai hoang phục hóa, tháo gỡ bom mìn ổn định đời sống nhân dân. Tuy vậy công việc cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa đang diễn ra gay gắt và phức tạp nhưng đã tạo được tiền đề làm cơ sở cho những năm tiếp theo. Mặt khác do ảnh hưởng của chiến tranh biên giới làm cho sản xuất bị thiệt hại, chưa ổn định, cùng với thiếu hụt khan hiếm phân bón, thuốc trừ sâu rầy dẫn đến thiếu trầm trọng lương thực, thực phẩm, giá cả tăng vọt đời sống nhân dân khó khăn.

Tháng 8/1979 hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 6 (khóa IV) đã thảo luận và đề ra phương hướng giải quyết khắc phục những khó khăn gay gắt của đời sống xã hội, tìm kiếm một lối thoát cho nền kinh tế ra khỏi tình trạng khủng hoảng, trì trệ.

Hội nghị Trung ương 6 đã đánh dấu bước ngoặt trong quản lý kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh nói chung và Củ Chi nói riêng. Nghị quyết đã phân tích tình hình chung cả nước và chỉ ra tồn tại của cơ chế quản lý hành chính bao cấp, nhiều chính sách đã lỗi thời nhưng kéo dài quá lâu cần phải khắc phục tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển.

Trong bối cảnh tình hình trên Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Củ Chi lần thứ II được tiến hành từ ngày…./…./…… đến ngày…./…./…… có 229 đại biểu chính thức thay mặt cho gần 3.000 đảng viên trong toàn Đảng bộ.

Sau hai ngày làm việc khẩn trương, Đại hội đã nhất trí đánh giá tình hình thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ nhất của huyện, những thành tựu đạt được đồng thời chỉ ra một số yếu kém trong lãnh đạo của Đảng bộ. Nổi nhất là cải tạo và xây dựng không đồng bộ, sản xuất bị giảm sút, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, trình độ năng lực, kinh nghiệm quản lý kinh tế-xã hội của cán bộ lãnh đạo các cấp còn yếu, phong trào cách mạng không đồng đều, còn yếu kém ở một số xã, cơ quan ban ngành huyện.

Trên cơ sở đánh giá nghiêm túc những ưu, khuyết điểm và nhìn nhận thế mạnh của huyện, Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ của huyện những năm 1980 – 1982 là:

Nhiệm vụ hàng đầu là phát triển sản xuất nông nghiệp, tư tưởng chỉ đạo là tập trung cao độ các ngành các đơn vị nhằm giải quyết vấn đề ăn, cung ứng nguyên liệu cho sản xuất, xây dựng và cho xuất khẩu.

Xây dựng những đề án chuyên đề từng cây, từng con cụ thể như đề án trồng thuốc là sợi vàng, chăn nuôi bò sữa trồng điều, ớt, đậu phộng xuất khẩu. Đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, xây dựng vùng lúa cao sản, vùng rau chuyên canh. Xây dựng hệ thống thủy lợi nội đồng, hạ thế điện phục vụ sản xuất, khuyến khích và tạo điều kiện giúp đỡ cho các cơ sở sản xuất tiểu công  nghiệp, thủ công nghiệp phát triển, phục hồi sản xuất, có chính sách thỏa đáng, đối với các loại hàng xuất khẩu và những người sản xuất thủ công, cá thể. Chú trọng cải tiến công tác lưu thông phân phối, xây dựng và phát triển mạng lưới thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã để giải quyết cung ứng hàng hóa cho đời sống nhân dân và thu mua lại hàng nông sản và tăng cường quản lý thị trường một cách thường xuyên và chặt chẽ đảm bảo hàng hóa tập trung vào tay Nhà nước. Sử dụng mạnh mẽ đòn bẩy kinh tế như giá cả, kết quả hàng trao đổi tiền thưởng để thu mua hàng nông sản. Mở rộng hợp tác trao đổi hàng hóa ra ngoài địa phương để tăng thêm mặt hàng tiêu dùng cho người lao động. Cải thiện một bước công tác chăm lo đời sống tinh thần, trị chữa bệnh cho quần chúng nhân dân.

Hai là; Tiếp tục công cuộc cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải, thương nghiệp. Công tác cải tạo, nhất là đối với nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phải nắm vững, phương châm tích cực và vững chắc phát triển đi đối với củng cố, củng cố tốt để phát triển. Lấy mục đích thúc đẩy, khuyến khích sản xuất làm tiêu chuẩn đánh giá kết quả của cải tạo và xây dựng. Bên cạnh các tổ chức quốc doanh và tập thể, phải tạo điều kiện để các thành phần kinh tế công tư hợp doanh cá thể phát triển, kết hợp chắc giữa kinh tế huyện và cơ sở.

Ba là; Xây dựng lực lượng bộ đội địa phương, dân quân du kích, công an nhân dân đạt yêu cầu về số lượng và chất lượng. Tiếp tục phát động phong trào quốc phòng toàn dân với tổ chức đội ngũ hoàn chỉnh, luyện tập tốt, đáp ứng đầy đủ và kịp thời các yêu cầu của tiền tuyến: Đề cao cảnh giác cách mạng, chủ động tấn công ngăn chặn mọi âm mưu hành động chống phá cách mạng kể cả những tin tức xuyên tạc của địch, bảo vệ có hiệu quả tài sản xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội trong địa bàn của huyện.

Bốn là; Về lâu dài phải xây dựng huyện có cơ cấu kinh tế công- nông nghiệp, thương mại dịch vụ, tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Bước đi của huyện là: nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, từng bước xây dựng công nghiệp, trước hết là công nghiệp phục vụ nông nghiệp và nhu cầu thiết yếu của đời sống nhân dân. Cơ cấu sản xuất torng nông nghiệp gồm lúa, rau, cây lương thực để giải quyết vấn đề ăn, cây công nghiệp và cây nguyên liệu cho tiểu thủ công nghiệp.

Nhanh chóng hoàn thành công tác điều tra cơ bản, nắm chắc tình hình lao động tay nghề, ruộng đất, công cụ cơ bản phục vụ sản xuất, quy hoạch vùng lúa cao sản, vùng rau chuyên canh, cây công nghiệp, cây con kết hợp ngành nghề ở từng vùng một, công tác quy hoạch tổng thể phải khai thác tốt mọi khả năng hiện có, từng bước hình thành chắc cơ cấu kinh tế nông công nghiệp trên địa bàn huyện. Trên cơ sở nắm chắc lực lượng lao động, bố trí, giải quyết công ăn việc làm cho tất  cả những người còn thất nghiệp. Xưỡng cơ khí Củ Chi phải làm tốt nhiệm vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp.

Tăng cường chỉ đạo đối với công tác quy hoạch, kế hoạch ở huyện và các xã.

Về cải tạo nông nghiệp, trong bước đi phù hợp với điều kiện ban đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp cần được tập trung chỉ đạo thực hiện và những hình thức đi lên phù hợp với điều kiện hiện tại và phù hợp với nhận thức của nông dân.

Năm là; Đẩy mạnh công tác xây dựng, củng cố hệ thống chuyên chính vô sản trên cả 3 mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức, nâng cao đạo đức, phẩm chất, trình độ năng lực, trọng tâm là khả năng chỉ đạo và tổ chức quản lý kinh tế của cán bộ đảng viên. Tiếp tục củng cố kiện toàn bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể, tăng cường sức cho khối xã, các ngành mũi nhọn. Ngăn chặn, đẩy lùi tình hình suy thoái về phẩm chất tư tưởng trong Đảng, đề cao những nhân tố tích cực, đấu tranh phê phán mạnh mẽ, triệt để các biểu hiện tiêu cực, trì trệ, thực hiện khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh, loại trừ những người không còn phẩm chất, tư cách đảng viên ra khỏi Đảng, đẩy mạnh phát triển đảng viên mới được chọn lọc từ lực lượng ưu tú của các tổ chức quần chúng, nhất là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Thực hiện kế hoạch hóa đội ngũ cán bộ.

Đại hội đã tiến hành bầu Ban chấp hành Đảng bộ Huyện nhiệm kỳ mới gồm 31 ủy viên chính thức, và 4 ủy viên dự khuyết. Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ lần thứ nhất (khóa II) đã bầu ra Ban thường vụ huyện ủy gồm 10 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Văn Nam (Năm Nam) được bầu làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Trần Văn Nguyên (Mười Nguyên) được bầu làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Nguyễn Văn Thắng (Năm Thắng) Phó Bí thư- Chủ tịch UBND huyện, đồng chí Tạ Quang Huy- Uỷ viên thường vụ- Trưởng Ban tổ chức huyện ủy, đồng chí Nguyễn Văn Định- Uỷ viên thường vụ- Trưởng Ban Tuyên giáo huyện ủy, các đồng chí Lê Thành Long, Nguyễn Thành Sậy, Châu Văn Sến- Uỷ viên thường vụ- Phó chủ tịch UBND huyện, đồng chí Huỳnh Thanh Nhã- Uỷ viên thường vụ- Trưởng công an huyện, đồng chí Phạm Tấn Thành - Uỷ viên thường vụ - Huyện đội trưởng.

Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Củ Chi lần thứ II là đại hội của ý chí, quyết tâm, năng động sáng tạo, dám nhìn thẳng vào khó khăn thực tế trước mắt đánh giá đúng tình hình mọi mặt, nhìn rõ hơn xu thế phát triển và những khó khăn to lớn trong phong trào quần chúng nhân dân lao động trong huyện. Đại hội đã tích lũy cho Đảng bộ vốn tri thức và kinh nghiệm vô cùng qúy giá trong những năm đầu của một thời kỳ mới. Đại hội thể hiện quyết tâm của Đảng bộ và nhân dân Củ Chi, tự giác hành động, lao động, sáng tạo để xoay chuyển mạnh tình hình kinh tế-xã hội.

Triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội biểu huyện lần thứ II, Đảng bộ Củ Chi có một số thuận lợi nhưng không ít khó khăn. Đời sống nhân dân ổn định và cải thiện hơn so với trước từng bước được nâng lên, nông dân lao động tích cực, sản lượng lương thực, thực phẩm tăng. Được sự chỉ đạo chặt chẽ của Trung ương và Thành phố bằng các nghị quyết Trung ương 6 và nghị quyết 26 Bộ chính trị (khóa IV), nghị quyết 9 của Thành ủy (khóa I) đã vạch ra phương hướng sản xuất mới, cách làm ăn mới và hàng loạt chính sách mới được ban hành đã tháo gỡ vướng mắc ràng buộc trong sản xuất, kinh doanh là tiền đề để phát huy tính tự lực, tự cường thúc đẩy sản xuất phát triển.

Trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt giữa 2 con đường xã hội chủ nghĩa và tư sản chủ nghĩa, Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo cải tạo quan hệ sản xuất cũ xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn và đã đạt được một số thành tựu đáng kể bước đầu.

- Về khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế:

Chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng và chính phủ, Đại hội lần thứ II của Đảng bộ Củ Chi đã xác định nhiệm vụ hàng đầu là “Tập trung sức để tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm tạo điều kiện mở đường cho sản xuất phát triển, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân” và nêu rõ: “cải tạo phải gắn liền với phát triển sản xuất, phân bổ lại lực lượng lao động nhằm tăng cường mạnh mẽ các thành phần kinh tế quốc doanh, hợp tác xã, tạo điều kiện cho kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo”.

Trong cải tạo và phát triển nông nghiệp, Đảng bộ đã chủ động và kịp thời chỉ đạo củng cố các tập đoàn sản xuất hiện có, tập trung lực lượng xây dựng nâng các tập đoàn sản xuất yếu kém và trung bình thành tập đoàn khá. Xáx định rõ phương hướng trồng trọt, chăn nuôi và ngành nghề phù hợp với đất đai, lao động của từng nơi. Xã Bình Mỹ là một trong 7 xã thí điểm cải tạo nông nghiệp của huyện Củ Chi và thành phố Hồ Chí Minh, được sự chỉ đạo trực tiếp thường xuyên của Huyện ủy, Thành ủy, Ban cải tạo nông nghiệp của huyện và của thành phố nên các hợp tác xã nông nghiệp (Quyết Thắng 1 và Quyết Thắng 2) lúc bấy giờ được đánh giá là làm ăn có hiệu quả, đạt được danh hiệu tiên tiến về cải tạo nông nghiệp, và được báo cáo điển hình tại hội nghị sơ kết 7 năm về công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh (1982). Các xã khác trong huyện cũng đạt được chỉ tiêu hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp, tiến hành việc điều chỉnh ruộng đất, giao khoán cho nông dân, nhưng trên thực tế, ban chủ nhiệm các hợp tác xã nông nghiệp rất lúng túng trong khâu tổ chức, không đủ khả năng điều hành, không đảm nhận nổi 5 khâu trong sản xuất đối với xã viên nên các xã viên tự lo, ruộng ai nấy lám, cuối vụ thì đóng thuế, thanh toán hợp đồng hai chiều về trao đổi vật tư, đóng góp một ít sản phẩm vào qũy, thành thử hợp tác xã nông nghiệp chỉ đóng vai trò thu lúa thuế và vật tự của nông dân, và để nuôi sống số nhân viên đã có (từ 20 đến 50 người) nên Ban chủ nhiệm chuyển hướng hoạt động, họ lợi dụng danh nghĩa hợp tác xã, mua bán vật tư, như phân bón, xăng dầu và các mặt hàng khác mua được với giá rẽ. Cách làm ăn này chỉ kéo dài một vài năm, sau đó các hợp tác xã nông nghiệp lần lượt tan rã.

Nguyên nhân khiến các hợp tác tan rã:

- Nguyên nhân cơ bản là quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Cơ chế quản lý và chính sách của nhà nước trước đây chưa thật sự khuyến khích nông dân sản xuất nông nghiệp, dẫn đến tình trạng nhiều hợp tác xã làm ăn kém hiệu quả, chưa hơn được nông dân làm ăn cá thể.

- Khi xây dựng các tập đoàn sản xuất, hợp tác xã nông nghiệp, huyện Củ Chi đã nóng vội muốn đạt chỉ tiêu hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp vào năm 1985, nên đã ép buộc nông dân đưa ruộng vào hợp tác xã.

- Một tầng lớp nông dân mới xuất hiện tức là những người mới được cấp ruộng đất, không có kinh nghiệm lại không tha thiết với nghề nông, nhưng vẫn nhận ruộng đất với hy vọng sau này để lại cho con cháu làm ruộng với một tinh thần chiếm giữ đất, chứ không phải tạo nguồn thu nhập chính cho gia đình, đã làm cho sản phẩm ăn chia chung của hợp tác xã thấp.

- Trong quá trình điều chỉnh ruộng đất, có những trường hợp bất công, không hợp lý như việc lấy đất của những người ở ấp, xã khác đến canh tác mà không cần biết người đó có được cấp lại ruộng đất ở nơi cư trú hay không (qua Nghị quyết cấm xâm canh của xã) đưa đến thực tế phủ phàng: người có ruộng trở thành “trắng tay”, đói khổ, không ai biết đến, hơn nữa có những hiện tượng tiêu cực như một số cán bộ có chức, có quyền ở nông thôn hoặc người trong ban quản lý hợp tác xã, lợi dụng việc điều chỉnh ruộng đất, dành phần ruộng tốt, đất tốt gần nhà cho bà con dòng họ. Tất cả những việc làm trên không qua được mắt của nhân dân, nên đa số họ nản lòng, không tích cực sản xuất.

- Trung nông, những người có 1- 2 ha đất với đầy đủ vốn, phương tiện sản xuất, nhưng căn cứ vào lao động trong gia đình thì thừa ruộng dù chỉ 0,5 – 1 ha cũng bị điều chỉnh. Họ là những người có khả năng, có máy móc và kinh nghiệm sản xuất nhưng lại thiếu ruộng đất để sản xuất, từ đó sản xuất hàng hóa ở nông thôn giảm sút.

- Thiếu đội ngũ cán bộ có năng lực, thiếu điều tra cơ bản, nóng vội chạy theo chỉ tiêu.

Tất cả những nguyên nhân nêu trên đã làm cho nền sản xuất nông sản hàng hóa ở nông thôn trước đây có tăng năng suất đôi chút, nay giảm sút rõ rệt.

Từ khi có chỉ thị 100/BBT công tác cải tạo nông nghiệp đã được đẩy mạnh, từng bước ổn định đời sống tập đoàn viên, giữ vững và phát triển được tập đoàn. Các tập đoàn viên và nông dân đã biết kết hợp công tác khoa học kỹ thuật về cây, con, thích nghi với đất, nước, khí hậu, ứng dụng một số biện pháp kỹ thuật tiến bộ về thâm canh, phát triển thêm ngành nghề, khuyến khích và giúp đỡ kinh tế phụ gia đình, làm tốt nghĩa vụ đối với nhà nước. Mặc dù có năm thiên tai liên tiếp xảy ra nhưng nông dân đã vượt qua nhiều khó khăn và sản xuất nông nghiệp ngày càng toàn diện. Ngoài vụ mùa là chính, hai vụ đông xuân và hè thu đã trở thành tập quán trồng trọt của nông dân, tính cả hệ số sử dụng đất canh tác, sản lượng màu cùng một số cây công nghiệp ngắn ngày đều tăng.

- Sản xuất công nghiệp: Xí nghiệp cơ khí quốc doanh từng bước sản xuất được những sản phẩm phục vụ cho nông nghiệp như mô tưa bom nước, liềm, cuốc, xẻng… xí nghiệp cố gắng cân đối vật tư nguyên liệu bên ngoài để sản xuất bù đắp những phần thiếu, kết hợp hài hòa 3 lợi ích nhất là đóng góp vào việc cân đối ngân sách huyện, giải quyết thu nhập đời sống công nhân. Nhưng nhìn chung những sản phẩm chủ yếu chưa đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu của nông dân.

Tiểu thủ công nghiệp đã đóng góp rất lớn cho tiêu dùng, chế biến, xuất khẩu. Thành lập hợp tác xã gồm sứ tại xã Nhuận Đức, lò gạch ngói tại xã Thái Mỹ, đưa vào quản lý các cơ sở tráng bánh tráng…, tháo gỡ dần sự trói buộc của cơ chế quản lý không còn phù hợp, đẩy mạnh phát triển sản xuất, chăm lo đời sống tổ viên. Tuy nhiên, hoạt động của tiểu thủ công nghiệp còn có những mặt khó khăn nhất định như giá cả biến động, hợp đồng không ổn định, cung ứng vật tư chưa kịp thời, đồng bộ. Hoạt động chủ yếu là gia công nên việc quản lý còn gặp nhiều khó khăn, sự phối hợp giữa ngành và địa phương không chặt.

- Các ngành sản xuất khác:

Về khai thác gỗ Lòng Hồ, trong hai năm 1980- 1981 huyện đã khai thác một lượng gỗ, củi, than tương đối lớn phục vụ xây dựng và tiêu dùng của nhân dân, đóng góp vào ngân sách huyện. Đặc biệt, việc khai thác gỗ làm khung nhà giải quyết cho hộ chính sách và dân nghèo có ý nghĩa rất lớn trong điều kiện đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn.

Về xây dựng cơ bản, mặc dù có rất nhiều khó khăn trong việc chạy vật tư, tiền vốn nhưng so với những năm qua đã có bước phát triển đáng phấn khởi. Đã xây dựng được xưỡng cơ khí, trường cấp 1, 2 Thái Mỹ, kho vật tư nông nghiệp, khu di tích lịch sử Bến Đình, 7 trụ sở làm việc của UBND xã, Bệnh viện Củ Chi và nhiều phòng học, công trình khác, các ngành xây dựng, giao thông đã kịp thời sửa chữa và xây dựng hàng chục km đường sá, thay và sửa chữa nhiều cầu hư nhằm phục vụ cho việc đi lại của nhân dân cũng như việc vận chuyển hàng hóa trong các hoạt động sản xuất kinh doanh được thuận lợi.

Ngành điện lực có nhiều nỗ lực đưa điện trung, hạ thế về tận xóm ấp phục vụ cho sản xuất và thắp sáng của nhân dân. Từ cơ sở ban đầu của điện lực Củ Chi là 6 trạm biến thế với công suất 600 KVA phục vụ căn cứ Đồng Dù, chỉ vài năm sau các đơn vị, ngành điện lực đã thiết lập vài chục km đường dây trung cao thế và hàng ngàn KVA điện. Cải tiến hệ thống thông tin liên lạc, bảo đảm chuyển nhận thức đến tận cơ sở kịp thời.

Phương thức hoạt động thương mại bấy giờ, chủ yếu là cung cấp theo chế độ tem phiếu với một kế hoạch nhất định mà nhà nước là người chịu trách nhiệm “bao thầu” cung ứng cho mọi nhu cầu xã hội. Vai trò của kinh tế tư nhân còn hạn chế, do đó sản phẩm trao đổi trong xã hội nghèo nàn, chủ yếu là hàng nhu yếu phẩm do nhà nước cung cấp. Cho đến cuối năm 1978, huyện Củ Chi đã tổ chức mạng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa với 33 cửa hàng gồm: 25 cửa hàng bách hóa, 7 cửa hàng ăn uống và 1 cửa hàng thực phẩm. Ở mổi xã đều có mở một quầy hàng bán lẽ và một cửa hàng hợp tác xã mua bán. Các đơn vị này đã phân phối trong nhân dân một số mặt hàng thiết yếu như: vãi, quần áo may sẳn, bột ngọt, nước chấm, đường, sữa, thuốc lá, xà bông, diêm quẹt, văn phòng phẩm, vật liệu xây dựng, nông cụ thường dùng vv…

Ngành giao thông vận tải đã có nhiều cố gắng, tình hình vận chuyển, luân chuyển hàng hóa và hành khách khá tốt. Mặc dù gặp nhiều khó khăn về nhiên liệu vật tư phụ tùng thay thế, nhưng đã tích cực chủ động vận chuyển ngoài kế hoạch bằng phần nhiên liệu của khách hàng, tận dụng vật tư, phụ tùng thay thế để tăng thêm đầu xe hoạt động. Mở rộng luồng tuyến để phục vụ cho sản xuất và nhân dân đi lại trong và ngoài huyện.

Ngân hàng có nhiều cố gắng tạo nguồn vốn giải quyết cho cán bộ công nhân viên và tập đoàn viên vay để phục vụ sản xuất và phát triển chăn nuôi.

- Chăn lo phát triển văn hóa xã hội:

Các hoạt động văn hóa, giáo dục, thông tin, y tế, thể dục thể thao, thương binh xã hội, bảo vệ bà mẹ trẻ em đều có mức phát triển, góp phần quan trọng vào việc hình thành và bồi dưỡng liên tục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ, lối sống mới trong các tầng lớp nhân dân lao động. Từ năm 1978 hệ thống truyền thanh huyện được xây dựng phủ sóng đến các xã nhiều hơn. Đội thông tin lưu thông của huyện, các đội thông tin cơ sở của xã đã có công rất lớn trong việc tuyên truyền đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước, nhất là những chủ trương, chương trình hành động của địa phương. Hoạt động văn hóa- văn nghệ của huyện không phải là tạo ra những trung tâm, những  cơ sở chuyên nghiệp mà chính là tổ chức vận động, phát động nhân dân tạo ra các phong trào văn nghệ quần chúng, phong trào đọc sách báo, giáo dục truyền thống. Các phong trào đã động viên đông đảo quần chúng tham gia sinh hoạt văn thể mỹ lành mạnh, tạo điều kiện từng bước đẩy lùi một bộ phận bi quan, tiêu cực trong xã hội.

Số học sinh ngày càng tăng, đến năm 1979- 1980 riêng ngành học phổ thông cơ sở đã có 492 phòng học. Tuy nhiên vào năm học này toàn huyện có 41.100 học sinh cấp 1 và cấp II nên vẫn còn tình trạng thiếu lớp và vì vậy vẫn còn đến 119 lớp còn phải học ca trưa. Năm học 1981- 1982 có 801 lớp cấp 1 với 29.356 học sinh, 256 lớp cấp II với 11.744 học sinh. Năm học 1982- 1983 có 811 lớp cấp 1 với 29.725 học sinh và 269 lớp cấp II với 11.970 học sinh (tổng số 41.695 học sinh). Mạng lưới y tế, thể dục thể thao được thành lập tận cơ sở, các tập đoàn đều có Hội chữ thập đỏ, mỗi xã có trạm xá. Công trình tiêu biểu có ý nghĩa quan trọng đồng thời đánh dấu hướng phát triển chiều sâu của hoạt động y tế của huyện là Bệnh viện Củ Chi, nay là Trung Tâm Y tế Củ Chi. Lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng bệnh viện này được tổ chức vào ngày 1/7/1981 và lễ khánh thành đưa vào sử dụng được tổ chức vào ngày 24/10/1982. Tiếp theo đó là phòng khám khu vực I Tân Quy và phòng khám khu vực II Phước Thạnh được nâng cấp và trang bị thêm một số phương tiện. Ở cơ sở 7 trạm y tế dạng kiên cố của các xã Phú Mỹ Hưng, Phước Vĩnh An, Bình Mỹ, Tân Thạnh Đông, Trung An, Phước Thạnh và Tân Phú Trung cũng đã được hoàn thành. Phong trào quần chúng trồng và sử dụng thuốc nam phát triển tốt. Công tác thương binh xã hội có nhiều cố gắng, đến năm 1980 hầu hết các vùng nông thôn trên địa bàn Củ Chi không còn hộ nào gặp cảnh “không có đất cắm dùi” cảnh mà trước đây một số người phải chịu. Những năm tiếp theo, nhiều hộ làm ăn khấm khá, nhiều hộ chính sách được tặng “nhà tình nghĩa” nhiều căn nhà xây tô, mái ngói được xây dựng, làm đẹp thêm cho bộ mặt xóm ấp. Hồ sơ thương binh liệt sĩ đạt trên 88%, Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể luôn quan tâm giải quyết chính sách đúng quy định, đến các trường hợp già cả neo đơn, các trẻ em mồ côi, người tàn tật.

Sự chỉ đạo nâng cao hiểu biết và lòng tự hào của đông đảo quần chúng về truyền thống quê hương đã được Đảng bộ quan tâm.

- Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ an ninh - quốc phòng:

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, quá trình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội luôn luôn được gắn với thực hiện nhiệm vụ an ninh quốc phòng. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Củ Chi lần thứ II nêu rõ: Tích cực chủ động và kiên quyết tấn công trấn áp các thế lực phản động, phòng chống tội phạm hình sự, bài trừ tệ nạn xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ thật tốt tài sản của nhà nước, chống trộm cắp, ổn định vững chắc hậu phương, ngăn ngừa dập tắt mọi âm mưu gây bạo loạn, góp phần bảo vệ tuyệt đối an toàn, chuẩn bị sẳn sàng chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược trong mọi tình huống.

Từ ngày 14 đến ngày 26 tháng 10 năm 1980 một sự kiện lớn trong đới sống chính trị của thành phố đã diễn ra: Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh lần thứ hai, về công tác an ninh - quốc phòng, Đại hội đaãxác định: phải dựa vào phong trào tự giác của quần chúng, dựa vào sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đề củng cố quốc phòng, đưa công tác quân sự địa phương đi vào nền nếp. Phải duy trì thường xuyên việc huấn luyện quân sự phổ cập trong nhân dân, trước hết ở trường học, cơ quan, cơ sở sản xuất. Rèn luyện phong cách công dân có tổ chức, có kỷ luật, khẩn trương, phù hợp với yêu cầu sẳn sàng chiến đấu và xây dựng tác phong công nghiệp. Đồng thời phát huy kết quả cuộc vận động “Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân” kể cả lực lượng bán vũ trang. Hết sức chú trọng nâng cao giác ngộ chính trị và tính kỷ luật, tăng cường đoàn kết giữa quân và dân, giữa cán bộ và chiến sĩ.

Nghị quyết xác định mục tiêu cho công tác an ninh- quốc phòng là: Phải xây dựng lực lượng vũ trang thành phố có chất lượng cao. Lực lượng tập trung phải vững mạnh về chính trị tư tưởng, có kỷ luật, nắm vững trang bị vũ khí khí tài hiện đại với các binh chủng cần thiết, được bố trí hợp lý. Lực lượng dự bị phải mạnh, sẳn sàng chiến đấu, lực lượng dân quân tự vệ phải phát triển đều khắp ở cơ sở.

Thực hiện nghị quyết của Đảng bộ Thành phố và nghị quyết của Đảng bộ Huyện Củ Chi. Trong những năm 1980- 1983 Huyện đội Củ Chi đã thực hiện tốt các mệnh lệnh, chỉ thị của Bộ chỉ huy quân sự thành phố về nhiệm vụ phòng thủ bảo vệ các mục tiêu được giao. Ban chỉ huy quân sự huyện đã chủ động hiệp đồng với các lực lượng (đặc biệt với công an huyện) để giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.

Phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc mạnh đã tác động tốt trong việc xây dựng lực lượng công an trong sạch vững mạnh. Lực lượng công an trưởng thành về nghiệp vụ, về đạo đức cách mạng, cán bộ chiến sĩ sai phạm giảm rõ rệt. Thắng lợi trên mặt trận an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội là kết quả của sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng với lực lượng công an làm nòng cốt. Tuy nhiên cuộc đấu tranh để giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội còn gay go phức tạp, một bộ phận chiến sĩ công an chưa nhận thức đầy đủ vai trò trách nhiệm người công an nhân dân, có nơi có lúc còn cửa quyền, hách dịch đối với nhân dân, phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng chưa tốt, ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng.

Các ngành khác trong khối nội chính được sự chỉ đạo của huyện ủy đã bám sát được nhiệm vụ chính trị theo chức năng của từng ngành mà phục vụ. Tòa án xử đúng tội, đúng người, đúng luật góp phần vào ổn định an ninh trật tự trong huyện, không có sai sót lớn.

Ngành kiểm sát đã đi sâu vào kiểm sát chung và cùng công an đưa công tác bắt, giam giữ vào nề nếp, bảo đảm việc truy tố đúng pháp luật.

Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chuyên chính vô sản: Để hoàn thành những nhiệm vụ nặng nề mà Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ II đặt ra, Đảng bộ đã đặc biệt coi trọng nâng cao chất lượng hệ thống chuyên chính vô sản, trước hết là chất lượng của tổ chức Đảng.

Trong công tác chính trị tư tưởng, Đảng bộ tập trung làm cho cán bộ, đảng viên thấu suốt tình hình thuận lợi khó khăn, thực trạng kinh tế của đất nước, của thành phố và huyện sau những năm chiến tranh lâu dài, ác liệt. Sự chống phá của các thế lực phản động thù địch và tính phức tạp của cuộc đấu tranh giữa 2 con đường xã hội chủ nghĩa- tư bản chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng bộ ngày càng bám sát nhiệm vụ chính trị và thực trạng của huyện, đã tạo được sự nhất trí cao trong nội bộ Đảng và đông đảo quần chúng về đường lối chống chủ gnhĩa bánh trướng xâm lược của Trung Quốc và các quan điểm cơ bản về kinh tế chính trị, văn hóa, nâng cao năng lực nhận thức, tổ chức thực hiện của cán bộ đảng viên trước thử thách, khó khăn chung.

Bộ máy tổ chức của Đảng bộ thường xuyên được củng cố, các tổ chức cơ sở Đảng được mở rộng, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Các cấp ủy Đảng từng bước được tăng cường, củng cố nhất là ở xã. Nhìn chung, đại đa số cán bộ lãnh đạo, quản lý, đảng viên đã được rèn luyện, thử thách trong cách mạng giải phóng dân tộc đều vững vàng về chính trị, có nhiệt tình cách mạng cao, có ý chí tiến công, có phẩm chất tốt. Nhiều đồng chí có cố gắng học tập, bám sát công việc, thâm nhập phong trào, tích lũy được kiến thức, kinh nghiệm, ý thức chủ động vượt qua thử thách. Công tác quản lý cán bộ từng bước đi vào ổn định. Việc quy hoạch đội ngũ cán bộ bước đầu được tiến hành. Việc xử lý đề bạt, tăng cường cán bộ cho cơ sở và công tác phát triển đảng viên thường xuyên thực hiện.

Tuy vậy, sau ba năm lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ hai cũng đã bộc lộ một số khuyết nhược điểm: việc nắm đường lối, nắm quy luật, nắm thực tiễn chưa chắc, thiếu tầm nhìn xa và sâu về những vấn đề kinh tế đời sống, văn hóa, xã hội, tư tưởng, tác phong sản xuất nhỏ phổ biến, nặng nề; có hiện tượng giảm sút về ý chí chiến đấu, tinh thần trách nhiệm và tổ chức kỷ luật trong một ít cán bộ đảng viên.

Việc bố trí sử dụng cán bộ, đảng viên có trường hợp chưa hợp lý, chưa gắn nhiệm vụ chính trị với nghiệp vụ chuyên môn còn chấp vá, thiếu đồng bộ, chưa mạnh dạn đề bạt lực lượng trẻ phát triển từ trong các phong trào cách mạng của quần chúng, chưa khai thác hết khả năng của từng loại cán bộ trong từng nguồn. Việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý còn yếu. Công tác quy hoạch cán bộ, đảng viên chưa có nền nếp.

Về cơ cấu, nhược điểm nổi bật của Đảng bộ là thiếu cán bộ, đảng viên có nghiệp vụ chuyên môn ở các lĩnh vực kinh tế- xã hội, văn hóa. Số cán bộ, đảng viên trưởng thành từ phong trào quần chúng ở cơ sở tại chổ còn quá ít.

Những tồn tại, khuyết điểm nêu trên có nguyên nhân chủ yếu sau đây:

- Công tác giáo dục chính trị tư tưởng nhiều lúc và trên nhiều vấn đề có nhạy bén, kịp thời, nhưng nhìn chung việc giáo dục lý tưởng cộng sản, đấu tranh giữa hai con đường chưa thật tốt, chưa tiến hành giáo dục cơ bản về chủ nghĩa xã hội một cách có hệ thống và sát hợp với từng loại đối tượng dẫn đến một số trường hợp cán bộ đảng viên sai phạm vì thiếu tu dưỡng, nhận thức lệch lạc, chưa theo kịp với tình hình mới.

- Nội dung sinh hoạt chi bộ kém chất lượng, đấu tranh tự phê bình, phê bình chưa mạnh, chưa thường xuyên, chưa tập trung dồn sức cho cơ sở nhất là xã.

- Hệ thống tổ chức quản lý cán bộ, đảng viên còn yếu từ đó một bộ phận cán bộ đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân, không chịu sự rèn luyện bản thân, không chịu sự giám sát, quản lý của tổ chức Đảng và quần chúng, ý chí chiến đấu sa sút đi đến thoái hóa biến chất.

- Các ban chức năng xây dựng Đảng hoạt động thiếu đồng bộ, một số trường hợp đánh giá và bố trí không đúng người, đúng việc, gây lãng phí trong sử dụng cán bộ. Việc xử lý kỷ luật chưa nghiêm, không kịp thời. Công tác kiểm tra còn nặng nề kiểm tra và xử lý kỷ luật, chưa coi trọng biện pháp giáo dục, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực.

Song song với công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ thường xuyên chủ động, tích cực chăm lo củng cố chính quyền, đoàn thể. Tiếp tục thi hành nghiêm chỉnh chỉ thị 33 của Bộ chính trị và hướng dẫn thực hiện của Ban tổ chức, huyện đã tập trung vào việc giảm biên chế, dựa theo mô hình mới đi vào ổn định và điều hành chặt chẽ. Để nâng cao chủ động và hiệu lực, hiệu quả của chính quyền huyện ủy đã chỉ đạo cho Uỷ ban triển khai thực hiện quyết định số 52-QĐ/UB ngày 19/3/1984 của Uỷ ban nhân dân thành phố  về phân công phân cấp quản lý của quận, huyện và “bản quy định về phương hướng và nội dung phân công, phân cấp cho phường, xã”. Huyện ủy hết sức coi trọng việc phát huy quyền chủ động của cấp xã, phát huy quyền lực của Hội đồng nhân dân ở cơ sở để đóng góp vào việc xây dựng, quản lý huyện. Mặt khác tập trung kiện toàn bộ máy và hiệu lực quản lý của chính quyền.

Thông qua các lần bầu cử Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp, hệ thống chính quyền từ huyện đến xã ngày càng được củng cố về phẩm chất chính trị, trình độ quản lý kinh tế, xã hội. Về tổ chức thực hiện, về lề lối làm việc, phân công phân nhiệm tác phong sâu sát, phát huy dân chủ nội bộ và thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động có nhiều tiến bộ.

Trong năm 1981, Đảng bộ huyện đã chỉ đạo tổ chức thành công bầu cử Quốc hội và bầu cử Hội đồng nhân dân thành phố, huyện, xã vào ngày 26/4/1981 và ngày 23/11/1981 với tinh thần trách nhiệm và nghĩa vụ các cử tri của Củ Chi đã lựa chọn những đại biểu ưu tú vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Qua bầu cử đã thấy rõ trình độ chính trị, ý thức về quyền làm chủ của quần chúng có nhiều tiến bộ. Hội đồng nhân dân huyện nhiệm kỳ 1982- 1984 đã tiến hành kỳ họp thứ nhất bầu đồng chí Nguyễn Văn Thắng làm chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện; các đồng chí Nguyễn Thành Sậy, Lê Thanh Long, Nguyễn Văn Định, Châu Văn Sến làm Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện.

Nhiều cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn nghiệp vụ đã được điều động tăng cường cho những đơn vị yếu, thiếu và ở xã thiết thực nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế, quản lý xã hội của Uỷ ban nhân dân.

Cơ cấu chính quyền từ huyện đến các xã đã có bước trưởng thành.

Hệ thống Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát, Thanh tra nhà nước, công an từ huyện đến xã từng bước được củng cố cùng với các tổ chức thanh tra nhân dân ngày càng hoạt động tốt hơn để giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, chống các hiện tượng tiêu cực trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội.

Tuy nhiên, năng lực quản lý kinh tế của chính quyền còn hạn chế. Từng thành viên Hội đồng nhân dân các cấp chưa phát huy vai trò của mình để giám sát việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

Về quản lý xã hội vẫn còn một số mặt còn yếu kém, chưa cụ thể hóa được quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động thành quy chế của mỗi ấp; chưa thực hiện tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ, y tế, giáo dục ở các khu vực hẻo lánh xa xôi. Pháp chế xã hội chủ nghĩa chưa được quan tâm đầy đủ, việc giáo dục pháp luật từ huyện đến xã đều chưa sâu.

Một số cơ quan, đơn vị chưa nắm vững chế độ, lề lối làm việc, phạm vi quyền hạn và trách nhiệm của đơn vị nên đôi lúc còn thực hiện chồng chéo. Biên chế hành chánh, biên chế giám tiếp vượt chỉ tiêu, nhưng nhiều cơ quan vẫn không bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao và không quản lý nổi cán bộ, nhân viên, nhiều nơi có hiện tượng vừa thừa vừa thiếu người, sử dụng lao động còn lãng phí.

Cùng với quá trình củng cố chính quyền các cấp, Đảng bộ luôn quan tâm xây dựng và phát triển các đoàn thể quần chúng để đáp ứng với yêu cầu của tình hình mới. Các đoàn thể đều được củng cố và phát triển, từ phong trào của quần chúng đã đào luyện được cho Đảng và Nhà nước một đội ngũ gồm hàng ngàn cán bộ, đảng viên góp phần xây dựng Đảng, chính quyền và chính các đoàn thể.

Giai cấp công nhân và người lao động tích cực hưởng ứng các phong trào hành động cách mạng, xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Nhưng nhìn chung, lập trường giai cấp công nhân chưa thật vững vàng, chưa thấy hết tính chất gay go phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp, chủ yếu là chạy theo chỉ tiêu, hoàn thành kế hoạch trên giao chứ chưa gắn chặt với nhiệt tình giai cấp và trách nhiệm. Chưa nhận thức đầy đủ và vận dụng tốt các quan điểm lớn của Đảng trước hết là quan điểm quần chúng và quan điểm phục vụ sản xuất. Do đó chưa tạo được phong trào mang tính quần chúng rộng rãi, tự  giác và liên tục.

Hội Liên hiệp nông dân tập thể đã làm được vai trò nòng cốt trong việc xây dựng củng cố tập đoàn, hướng dẫn tập đoàn viên thực hiện 5 công khai, quản lý dân chủ, phân công cán bộ hỗ trợ các xã xây dựng các tổ đoàn kết. Hội quan tâm việc bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, nên đã củng cố và phát triển tổ chức hội, Hội nông dân tập thể đã tích cực vận động giới mình thực hiện tốt các công tác lớn như nghĩa vụ lương thực, nghĩa vụ quân sự, cải tạo nông nghiệp, khai hoang phục hóa.

Nhìn chung, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể công đoàn, thanh niên, phụ nữ… đã phấn đấu thực hiện được:

- Tuyên truyền, giáo dục trong quần chúng nhân dân về đường lối của Đảng, luật pháp Nhà nước, phân biệt rõ bạn thù, cái mới cái cũ, tiến bộ và lạc hậu, nghĩa vụ công dân.

- Đội ngũ trực tiếp làm công tác quần chúng được bổ sung, củng cố, qua thực tiễn công tác trình độ, năng lực ngày một được nâng lên.

- Các phong trào cách mạng của quần chúng diễn ra liên tục sôi nổi trên nhiều lĩnh vực.

Thiếu sót tồn tại của công tác vận động tuyên truyền giáo dục quần chúng là chưa theo kịp tình hình, vẫn còn một bộ phận quần chúng chưa nhận thức đầy đủ về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nội dung giáo dục cũng chưa phong phú, chưa phù hợp từng giới, hình thức tuyên truyền chưa đủ sức hấp dẫn, lôi cuốn quần chúng.

Phương thức hoạt động của các đoàn thể còn nặng lối hành chính quan liêu, chưa giải quyết kịp thời các khó khăn vướng mắc của cơ sở; chưa phát huy hết vai trò làm tham mưu, đề xuất cho cấp ủy thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước.

Chất lượng hoạt động của một số cơ sở còn yếu, sinh hoạt rời rạc, nội dung chưa phong phú.

Qua ba năm, kể từ đầu đến cuối nhiệm kỳ II, Đảng bộ dần dần đã nhận thức được thực trạng kinh tế- xã hội của huyện nhà, xác định được thế mạnh và những mặt mất cân đối cơ bản của huyện, từ đó giúp Đảng bộ xác định được nhiệm vụ chính trị của mình, đề ra những biện pháp cụ thể. Qua kiểm điểm tình hình, nhìn chung Đảng bộ đã lãnh đạo thực hiện có kết quả nghị quyết của Huyện Đảng bộ nhiệm kỳ II trên nhiều mặt.

- Yêu cầu về cải tạo, xây dựng huyện có nhiều chuyển biến, từ những khó khăn trong những năm 1978- 1979, tưởng chừng không vượt qua nổi nhưng đảng bộ đã lãnh đạo vượt qua khó khăn. Tình hình sản xuất mấy năm qua liên tục phát triển, đời sống cán bộ công nhân viên và nhân dân ngày càng cải thiện.

Mạng lưới thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã đã giải quyết cung ứng hàng hóa cho đời sống nhân dân và thu mua lại hàng nông sản, tăng cường quản lý thị trường thường xuyên và chặt chẽ đảm bảo hàng hóa tập trung vào tay Nhà nước. Mạng lưới thu mua, bán hàng, quản lý thị trường được bố trí đều khắp, hoạt động cò nền nếp, tình trạng chồng chéo, tranh mua dành bán về cơ bản đã khắc phục. Việc chỉ đạo công tác xuất nhập khẩu kịp thời và đã tạo được một số kết quả, góp phần đáng kể vào khả năng tích lũy xây dựng bước đầu xây dựng được một số công trình kinh tế- văn hóa có giá trị đang phát huy tác dụng.

Các mặt hoạt động văn hóa, xã hội, xây dựng truyền thống được đẩy mạnh. Phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao phát triển tốt. Sự nghiệp giáo dục y tế đạt được nhiều thành tựu. Công tác xã hội có nhiều tiến bộ.

Hệ thống chuyên chính vô sản được củng cố. Công tác lãnh đạo của Đảng có tiến bộ. Chức năng nhiệm vụ Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ngày càng phát huy. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể thực hiện khá tốt. Công tác an ninh, quốc phòng đạt được nhiều thành tích, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Bên cạnh một số thành tích cơ bản đạt được, sau 3 năm lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của huyện, Đảng bộ nhận thấy còn một số mặt yếu cần phải khắc phục là:

- Cơ sở vật chất nghèo nàn, nhưng bị phân tán, thiếu tập trung, không phát huy hết công suất sử dụng, sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tuy có phát triển nhưng chưa tương xứng với điều kiện và khả năng. Về nông nghiệp việc xây dựng các vùng chuyên canh thâm canh còn chậm. Năng suất cây trồng, con vật nuôi tuy có tăng hàng năm nhưng không cao, năng suất lao động nông nghiệp, hệ thống sử dụng đất còn thấp. Sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển sản xuất và giải quyết đời sống. Các ngành kinh tế nói chung, hoạt động chưa đồng bộ, thiếu năng động, sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh góp phần vào sự phát triển của huyện.

Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tuy có nhiều chuyển biến tiến bộ, nhưng tình trạng trộm cắp, mất mát tài sản xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều. Công tác chống tiêu cực có làm nhưng thiếu tập trung chưa nhận được các điển hình tích cực để đẩy lùi tiêu cực. Chưa làm tốt việc giáo dục ý thức cảnh giác, sẳn sàng đối phó với kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch trong nội bộ và nhân dân.

Công tác quy hoạch tổng thể quá chậm, công tác kế hoạch chưa đi vào nề nếp, thiếu cơ sở thực tế. Trình độ và năng lực lãnh đạo, quản lý kinh tế, xã hội chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị. Công tác đào tạo, quy hoạch cán bộ nói chung quá chậm, tình trạng ít, yếu của đội ngũ cán bộ chưa giải quyết được, từ đó ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tiêu chuẩn hóa cán bộ.

Những thành tựu và tiến bộ đạt được trong việc thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ II, cùng với nhận thức rõ những thiếu sót, khuyết điểm là yếu tố cơ bản tạo tiền đề cho Đảng bộ bước vào xây dựng phương hướng nhiệm vụ của nhiệm kỳ đại hội Đảng bộ huyện lần thứ III.

IV.- ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ CỦ CHI LẦN THỨ III (1983) VÀ QUÁ TRÌNH CẢI TIẾN QUẢN LÝ KINH TẾ- XÃ HỘI (1983- 1985).

Bước vào những năm 1980, trong bối cảnh tình hình chung của cả nước, huyện Củ Chi còn gặp nhiều khó khăn, cuộc đấu tranh giai cấp giữa 2 con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa diễn ra gay gắt, quyết liệt. Việc từng bước xóa bỏ cơ chế hành chính quan liêu, bao cấp, bảo thủ trì trệ, chống tư tưởng trông chờ, ỷ lại thực hiện chưa được nhiều. Các thế lực thù địch cấu kết với đế quốc Mỹ tập trung thực hiện cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt trong tình hình kinh tế của Thành phố và huyện còn một số mặt mất cân đối và luôn biến động.

Tuy nhiên từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (tháng 3/1982) Trung ương Đảng và Bộ chính trị đã ra nhiều nghị quyết quan trọng mở ra, hướng mới cho sự phát triển kinh tế- xã hội trong cả nước. Đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 3 (khóa V) và Nghị quyết 01 của Bộ chính trị về công tác của Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là thời điểm các hoạt động kinh tế thực sự chuyển động, cán bộ, đảng viên và quần chúng lao động thấy được lối ra trước bế tắc về kinh tế và đời sống.

Trong bối cảnh trên, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Củ Chi được tiến hành từ ngày đến ngày tại Trung Tâm Văn hóa huyện, tham dự đại hội có 200 đại biểu chính thức thay mặt cho 3.159 đảng viên trong toàn Đảng bộ.

Các đại biểu dự đại hội đã tập trung trí tuệ và tinh thần trách nhiệm đóng góp vào các văn kiện của đại hội, đánh giá đúng những thành tựu, thiếu sót tìm ra nguyên nhân để khắc phục. Trên cơ sở tình hình nhiệm vụ chung mà nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, nghị quyết Hội nghị Trung ương (khóa V) và nghị quyết 01 Bộ chính trị về công tác của thành phố Hồ Chí Minh đề ra và các nghị quyết của Thành ủy, dựa vào tình hình thực tế và tiềm năng của huyện, Đại hội đã đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 1985 và những năm tiếp theo như sau:

- Đến năm 1985 phải bảo đảm hoàn toàn tự túc về lương thực cho nhân dân, từng bước ổn định và có mức cải thiện đời sống vật chất, đời sống tinh thần cho nhân dân đặc biệt là nhân dân ở vùng giải phóng cũ, vùng xa. Đảm bảo việc làm ổn định cho số lao động trong độ tuổi.

- Hoàn thành cơ bản hợp tác hóa nông nghiệp, củng cố để nông trường làm ăn có hiệu quả.

- Đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho yêu cầu xây dựng huyện sớm định hình cơ cấu kinh tế nông – công nghiệp- thương mại dịch vụ, từng bước xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa.

- Thường xuyên tăng cường cảnh giác, đẩy mạnh công tác an ninh và quốc phòng, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

- Tăng cường công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng, phân công, phân cấp quản lý và tăng cường cho cơ sở.

Để thực hiện các mục tiêu trên Đại hội đã xác định phương hướng nhiệm vụ trong giai đoạn 1983 – 1985 là:

- Tập trung chỉ đạo, tạo ra sự đồng bộ giữa các ngành, các cấp, phát huy đến mức cao nhất khả năng tiềm tàng của huyện. Cần tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng như thủy lợi, điện, đường giao thông… để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, cân đối cho được trồng trọt và chăn nuôi. Song song với phát triển nông nghiệp phải đẩy mạnh phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, chú ý công nghiệp chế biến để nâng cao giá trị hàng nông sản, đưa tiểu thủ công nghiệp vào các tập đoàn nông sản, đưa tiểu thủ công nghiệp vào các tập đoàn và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Trên cơ sở phát triển xuất nhập khẩu đầu tư nguồn vốn trở lại cho nông nghiệp để đảm bảo ổn định nguồn hàng xuất khẩu.

- Đẩy mạnh cuộc cách mạng quan hệ sản xuất, tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa và tổ chức lại sản xuất một cách hợp lý các ngành kinh tế. Cần quan tâm đến công tác cải tạo nông nghiệp. Chuyển mạnh cải tiến phân phối lưu thông làm cho hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa phát triển đủ mạnh để làm chủ thị trường, phục vụ tốt cho sản xuất và đời sống nhân dân.

- Phát huy đúng mức vai trò của Mặt trận và các đoàn thể, phát động mạnh mẽ phong trào hành động cách mạng của quần chúng trên các lĩnh vực, đẩy mạnh việc xây dựng và nhân điển hình tiên tiến, kiên quyết khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong nội bộ như bảo thủ, trì trệ, ăn cắp, hối lộ, ức hiếp quần chúng, đồng thời đẩy mạnh chống tiêu cực ngoài xã hội.

- Thường xuyên đẩy mạnh công tác tư tưởng văn hóa, đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới, con người mới. Thực hiện nghiêm chỉnh nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách giáo dục, chú ý chất lượng giáo dục, đẩy mạnh hướng nghiệp cho học sinh phát động mạnh mẽ phong trào văn hóa- văn nghệ quần chúng, tăng cường sự nghiệp y tế, thể dục thể thao, xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa.

- Tăng cường công tác an ninh quốc phòng, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Thực hiện tốt việc giáo dục ý thức cảnh giác, sẳn sàng đối phó với kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch trong nội bộ và nhân dân.

- Tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng bộ, xây dựng cơ sở Đảng vững mạnh. Nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên. Chú ý công tác quy hoạch đào tạo bồi dưỡng và phát triển đảng viên.

Dưới ánh sáng các Nghị quyết của Trung ương và thành phố, Đại hội đại biểu Đảng bộ Huyện Củ Chi lần thứ IV (tháng 9/1986) đã đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ III torng 3 năm như sau:

Nhìn chung trong 3 năm 1983, 1984, 1985, tuy khó khăn còn nhiều, nhưng tình hình chính trị, kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng đã có nhiều chuyển biến rõ rệt, làm thay đổi một bước quan trọng bộ mặt nông thôn của một huyện vốn đã bị chiến tranh tàn phá hết sức nặng nề. Cụ thể là:

Về nông nghiệp, diện tích năng suất, sản lượng cây trồng đều tăng, năng suất lúa bình quân từ 2,7 tấn/ha/vụ, năm 1982 tăng 3,06 tấn/ha/vụ, năm 1985 một số hợp tác xã đạt năng suất 8 – 10 tấn/ha/vụ, cá biệt có diện tích của hợp tác xã Tân Mỹ I xã Bình Mỹ đạt năng suất 15 tấn/ha/năm, đậu phọng từ 0,9 tấn/ha/vụ tăng 1,1 tấn/ha/vụ, sản lượng lương thực tăng bình quân hằng năm 2,7%. Một số nông nghiệp bắt đầu làm ăn có hiệu quả, phong trào trồng cây rừng luôn được đẩy mạnh.

Đàn trâu, bò tăng 7.000 con so năm 1982.

Những kết quả trên là rất quan trọng, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu và khả năng thực tế của huyện.

Các biện pháp thủy lợi, phân bón, giống mới và cơ giới hóa chưa được chú trọng đúng mức. Do đó hệ số sử dụng đất, năng suất cây trồng, con nuôi còn thấp.

Về công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp phát triển, đúng hướng và gắn hơn với nông nghiệp theo cơ cấu kinh tế nông – công nghiệp. Thể hiện rõ nét là công nghiệp chế biến với lúa có nhà máy xay lúa, mía có nhà máy ép đường, đậu phọng có nhà máy ép dầu…, làm tăng  thêm giá trị hàng nông sản phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng. Gía trị tổng sản lượng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân 16%/năm. Khai thác được phần lớn nguyên liệu tại chỗ, thu hút được nhiều lao động có tay nghề, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng ngày càng cao, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống được phục hồi và phát triển góp phần giải quyết việc làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống, làm phong phú thêm các mặt bằng phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu.

Bên cạnh những kết quả trên, tốc độ phát triển của công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nhìn chung còn chậm, quy mô còn nhỏ, máy móc, thiết bị chậm cải tiến, một số cơ sở được trang bị mới khá tốt, nhưng do trình độ kỹ thuật và quản lý kém nên chưa phát huy hết năng lực và công suất của máy. Ngành cơ khí sửa chữa chỉ mới sản xuất được một số công cụ giản đơn và sửa chữa nhỏ máy nông nghiệp, nhưng chất lượng chưa cao.

Về xây dựng cơ bản, trong 3 năm vốn tăng 4,5 lần so với 3 trước, chủ yếu tập trung cho hệ thống điện, giao thông, thủy lợi, các cơ sở kinh tế, các công trình phúc lợi công cộng. Đặc biệt ngày 05/12/1985 huyện khởi công xây dựng công trình thủy lợi kênh Đông, đây là công trình có quy mô lớn, cải tạo quan trọng đối với các xã vùng cao hầu như thiếu nước quanh năm. Để cung cấp nước tưới cho cây trồng vào mùa khô, cải tạo cùng đất đã bạc màu hoang góa, nhiễm phèn trong nhiều năm và tăng vụ lúa trong năm, giải quyết nhu cầu lương thực và thực phẩm cho dân Củ Chi và cho cả thành phố.

Tuy nhiên, trong xây dựng còn dàn đều, chưa tập trung đúng mức cho nông nghiệp. Một số công trình xây dựng thiếu đồng bộ, kéo dài, chất lượng không cao.

Về giao thông vận tải, mặc dù có nhiều cố gắng nhưng so với chỉ tiêu nghị quyết chưa đạt, phát triển giao thông nội đồng chậm và thiếu đồng bộ.

Về công tác cải tạo nông – công- thương nghiệp. Đối với nông nghiệp, cuối năm 1982 huyện có 3 hợp tác xã, 160 tập đoàn sản xuất, 1.102 tổ đoàn kết sản xuất, chiếm 1,4% diện tích và 19% hộ nông nghiệp nhưng chất lượng rất kém. Trong 100 tập đoàn sản xuất chỉ có 38 khá, số còn lại là trung bình và yếu kém, thậm chí có tập đoàn chỉ còn hình thức.

Từ khi có chỉ thị 100, chỉ thị 19 của Ban Bí thư, nghị quyết 21 của Thành ủy, huyện đã nhận thức đúng đắn hơn tầm quan trọng của công tác cải tạo nông nghiệp. Với nhiều biện pháp tích cực, tháng 9/1983 huyện hoàn thành điều tra điều chỉnh ruộng đất và cuối năm 1984 hoàn thành cơ bản việc đưa nông dân vào làm ăn tập thể với hai hình thức hợp tác xã và tập đoàn sản xuất (HTX: 94 TĐSX: 4), tập thể hóa được 92,94% diện tích và 89,62% hộ nông nghiệp. Qua củng cố nâng chất đã xây dựng được mô hình HTX nông – công- thương- tin- dịch vụ- xuất khẩu và đã đạt năng suất lúa khá cao ( 8 – 10 tấn/ha/năm) như HTX Quyết Thắng, HTX Tân Mỹ 1 xã Bình Mỹ… Đến năm 1986 huyện có 26 HTX nông nghiệp tiên tiến, 26 khá, 27 trung bình và 18 yếu cần tiếp tục củng cố.

Đối với công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, đã cải tạo và xây dựng được 16 cơ sở công nghiệp quốc doanh, vận động 56 cơ sở xay xát, chế biến nhỏ vào HTX nông nghiệp. Hoàn thành cải tạo tiểu thủ công nghiệp với 8 HTX và 6 tổ hợp thu hút trên 6.500 lao động.

Đối với thương nghiệp, đã điều tra phân loại các hộ kinh doanh thương nghiệp, giao cho các công ty, ngành hàng trực tiếp quản lý và cải tạo các hộ có doanh số lớn.

Tóm lại, trong 3 năm 1983, 1984, 1985 công tác cải tạo đối với nông nghiệp, công thương nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã đạt được những kết qủa đáng kể. Tuy nhiên, cũng còn nhiều thiếu sót, khuyết điểm. Lúc đầu có buông lơi cải tạo nông nghiệp, nhưng sau khi có nghị quyết của trung ương, thành phố thì chạy theo thời gian và số lượng nên dẫn đến gò ép; khi hoàn thành thì thỏa mãn, xả hơi, thiếu tập trung chỉ đạo bước tiếp theo. Cán bộ quản lý HTX còn thiếu và yếu cơ sở vật chất kỹ thuật còn ít nên chất lượng HTX nói chung còn thấp, chưa thể hiện tính hơn hẳn của kinh tế tập thể đối với cá thể. Số HTX trung bình và yếu còn nhiều (trên 40%). Một số HTX nặng kinh doanh thương nghiệp hơn nhiệm vụ sản xuất, hoặc chỉ tập trung sản xuất mà xem nhẹ các chức năng khác.

Công tác cải tạo công thương nghiệp chưa gắn chặt và phục vụ tốt cho cải tạo nông nghiệp, chưa quán triệt sâu sắc mục đích của cải tạo là nhằm xóa bỏ bóc lột nên nhiều nơi còn chạy theo số lượng, hình thức, còn khoán doanh số, cho tư nhân rồi chia lãi với nhà nước và HTX mua bán.

Về phân phối lưu thông và cung ứng xuất khẩu, có nhiều cố gắng mở rộng hệ thống thương nghiệp và dịch vụ xã hội chủ nghĩa, thực hiện liên doanh liên kết với các địa phương, đơn vị. Tình trạng kinh doanh đơn thuần, chạy theo lợi nhuận từng bước được khắc phục. Việc đầu tư cho sản xuất và phục vụ đời sống nhân dân có tiến bộ hơn. Năm 1985 thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã đã vươn lên chiếm lĩnh thị trường 90% các mặt hàng thiết yếu (gạo, thịt, đường, nước chấm, muối…) 80% bán buôn, 40% bán lẽ, thu mua trên 60% nông sản xuất khẩu tại huyện. Hoạt động xuất nhập khẩu có tiến bộ, bước đầu có chú ý đầu tư cho sản xuất, tạo chân hàng xuất khẩu ổn định, tăng qũy hàng hóa phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.

Tuy nhiên, việc thu mua nắm nguồn hàng nhất là nông sản thực phẩm chưa đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu, tiêu dùng trong huyện và làm nghĩa vụ đối với thành phố. Hiện tượng tranh mua tranh bán vẫn còn giá cả không ổn định nhất là sau khi thực hiện hệ thống giá mới vào cuối năm 1985. Hệ thống thương nghiệp tuy có phát triển nhưng chưa đáp ứng yêu cầu bán lẽ phục vụ nhân dân. Nhiều HTX mua bán xã chưa công khai được tài chánh với xã viên. Một số nơi vì chạy theo lợi nhuận đã đẩy giá lên làm ảnh hưởng đến giá cả thị trường. Thái độ phục vụ của một số cán bộ, ngành thương nghiệp còn cửa quyền, hách dịch và nhiều tiêu cực. Thành phần trung gian, mua gom hàng nông sản để đổi vật tư hàng hóa của nhà nước hưởng chênh lệch giá còn nhiều nhưng chưa có biện pháp ngăn chặn tốt.

Hoạt động xuất nhập khẩu tuy có tiến bộ hơn trước nhưng việc đầu tư cho sản xuất còn thấp, còn nhập một số hàng tiêu dùng cao cấp chưa cần thiết.

Những thiếu sót nói trên làm cho mặt trận lưu thông phân phối càng khó khăn, phức tạp, ảnh hưởng không tốt đến sản xuất và đới sống của nhân dân.

Về văn hóa xã hội và chăm lo đời sống nhân dân:

Hoạt động văn hóa, văn nghệ, báo chí, truyền thanh ngày càng gắn chặt và phục vụ nhiệm vụ chính trị của huyện, đáp ứng một phần nhu cầu tinh thần của nhân dân.

Công tác giáo dục có nhiều cố gắng, các ngành học phát triển đều, đội ngũ giáo viên được tiêu chuẩn hóa và sắp xếp hợp lý hơn.

Ngành y tế có nhiều cố gắng trong việc phòng, chống dịch và khám trị bệnh.

Phong trào thể dục thể thao rèn luyện thân thể có nhiều tiến bộ.

Thực hiện tốt chính sách thương binh xã hội. Đã hoàn thành cơ bản việc quy tập hài cốt liệt sĩ, chăm lo tốt đối tượng chính sách. Được Hội đồng Nhà nước tặng huân chương lao động hạng 3 về công tác thương binh xã hội.

Bình quân lương thực đầu người năm 1985 so với năm 1982 tăng 12 kg (năm 1982: 362 kg, năm 1985: 374 kg) có nhiều nhà ở tốt hơn.

Nhìn chung, công tác văn hóa và xã hội tuy có nhiều tiến bộ hơn trước nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Mức thưởng thức văn nghệ giữa các vùng trong huyện còn chênh lệch nhiều. Các tập tục cũ và tệ mê tín dị đoan có chiều hướng khôi phục. Chất lượng giáo dục và nuôi dạy còn thấp còn lúng túng trong tổ chức hướng nghiệp cho học sinh, chưa kết hợp tốt 3 môi trường giáo. Trường lớp còn thiết nhiều trẻ em đến tuổi đi học chưa được ra lớp, phong tràop 5 dứt điểm phát triển chậm và không liên tục, tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên còn cao. Chưa động viên được đông đảo quần chúng tham gia phong trào thể dục thể thao, rèn luyện thân thể, chất lượng hoạt động còn yếu và không toàn diện. Một số chế độ, chính sách đối với thương binh xã hội giải quyết chậm. Tôn tại lớn nhất là còn nhiều gia đình chính sách và nhân dân lao động nghèo còn khó khăn về nhà ở chưa được giải quyết.

Về an ninh và quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội có nhiều chuyển biến tiến bộ. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc khá tốt, đã hạn chế các hiện tượng tiêu cực về kinh tế- xã hội. Nhưng tình trạng trộm cắp và mất mát tài sản xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều nhất là ở các địa bàn trọng điểm và một số đơn vị kinh tế. Chưa kịp thời giải quyết những vướng mắc về mội bộ nên cả công an và quân sự đều không được xét công nhận Đảng bộ trong sạch vững mạnh trong 2 năm 1983, 1984.

Về xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng:

Có sự chuyển biến mới về nhận thức và hành động trong công tác xây dựng Đảng. Năm 1984 được thành phố xét công nhận 38 Đảng bộ và chi bộ trong sạch vững mạnh, trong đó có 10 Đảng bộ xã.

Trong 3 năm đã phát triển được 1.214 đảng viên, nâng tổng số đảng viên toàn huyện lên 3.159 đ/c, chiếm 1,5% dân số.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể được chú trọng. Năm 1985 đào tạo, bồi dưỡng được trên 5.000 cán bộ các loại ở các trường của trung ương, thành phố và huyện.

Đoàn thanh niên cộng sản phát triển cả về số lượng và chất lượng.

Hệ thống chính quyền từ huyện, đến cơ sở được củng cố và kiện toán, hiệu quả quản lý tốt hơn. Các cơ quan chuyên môn huyện được sắp xếp lại, tinh gọn còn 17 phòng ban.

Công đoàn huyện có nhiều cố gắng động viên cán bộ công nhân viên chức hắng hái lao động và công tác, cùng với chính quyền chăm lo đời sống cho các đối tượng trên.

Hội Liên hiệp phụ nữ động viên được nhiều chị em tham gia vào các phong trào chung, nhất là trong lĩnh vực phân phối lưu thông và thực hiện chính sách.

Hội nông dân tập thể tích cực tham gia vào phong trào hợp tác xã, làm thủy lợi, phong trào thâm canh tăng vụ, tăng năng suất, sử dụng giống mới, làm nghĩa vụ lương thực với nhà nước.

Mặt trận Tổ quốc thể hiện được vai trò trung tâm đoàn kết, động viên được các tầng lớp nhân dân đóng góp vào phong trào chung.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác xây dựng lực lượng trong nhiệm kỳ III cũng còn nhiều tồn tại và thiếu sót.

Việc giáo dục lý tưởng cộng sản, đấu tranh giữa hai con đường, ý thức cảnh giác cách mạng cho cán bộ đảng viên chưa tốt, chưa gắn chặt giáo dục chính trị tư tưởng với thực hiện đường lối chủ trương chính sách của Đảng, chưa kết hợp chặt công tác chính trị tư tưởng với công tác tổ chức, nhất là ở xã và khu vực phân phối lưu thông, dẫn đến một số trường hợp cán bộ đảng viên sai phạm vì thiếu tu dưỡng, nhận thức lệnh lạc.

Chưa tập trung, dồn sức đúng mức cho cơ sở nhất là xã, bố trí cán bộ còn bị động, chấp vá, chưa phát huy tốt năng lực của từng loại cán bộ.

Công tác kiểm tra việc thực hiện các quyết định không liên tục, chưa thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở đảng viên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức để ngăn ngừa khuyết điểm.

Hội đồng nhân dân huyện và xã chưa thể hiện đầy đủ chức năng của cơ quan quyền lực tại địa phương, chưa giám sát chặt chẽ hoạt động của cơ quan nhà nước, chưa sâu sát và phản ánh kịp thời, tâm tư nguyện vọng của quần chúng cho các cơ quan chức năng giải quyết.

Bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, hiện lực quản lý chưa cao, nhiều nghị quyết của Đảng và Hội đồng nhân dân chậm được cụ thể hóa. Một số ngành còn quan liêu, nặng công văn giấy tờ, gây phiền hà cho quần chúng. Chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân chưa sâu, công tác kiểm tra thiếu liên tục nên để xảy ra nhiều hiện tượng tiêu cực nhất là trong ngành phân phối lưu thông.

Hoạt động đoàn thể và mặt trận tuy có nhiều tiến bộ nhưng còn nhiều mặt yếu kém, lực lượng, đoàn viên, hội viên tuy có phát triển về số lượng nhưng chất lượng chưa cao. Tổ chức đoàn thể cơ sở chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ chính trị, còn nhiều lúng túng trong việc thực hiện chức năng và nội dung công tác của mình. Do đó chưa tập hợp được đông đảo quần chúng tham gia, sức mạnh của quần chúng chưa được phát huy mạnh mẽ.

bottom of page