
I. HUYỆN CỦ CHI QUA QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ:
Hiện nay Huyện Củ Chi là huyện ngoại thành của thành phố Hồ Chí Minh, nằm về phía Tây bắc, với diện tích tự nhiên 42.856 ha, phía Bắc giáp Huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, phía Đông- Đông Bắc giáp huyện Bến Cát, tỉnh Bình dương, lấy sông Sài gòn làm ranh giới tự nhiên; phía tây và tây Nam giáp huyện Đức Hòa, tỉnh Long An; phía Nam giáp huyện Hóc Môn. Huyện Củ Chi nằm ở tọa độ 10°55’ đến 11°10’ bắc vĩ tuyến và 106°22’ đến 10°40’ đông kinh tuyến. Thị Trấn Củ Chi là huyện lỵ cách trung tâm thành phố 35 km theo quốc lộ 22. Nhìn lên bản đồ chúng ta thấy mặt bằng Huyện Củ Chi như một hình tam giác cân, mà chiều nằm là phía ranh giới Tây Ninh, góc đỉnh là vàm Rạch Tra.
Theo dòng thời gian, năm 1698 Chưởng Cơ, Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh tuân lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu vào Nam thành lập phủ Gia Định để quản lý hai huyện Phước Long và Tân Bình thì Củ Chi thuộc tổng Bình Dương huyện Tân Bình. Đến năm Gia Long thứ 7 (1808) huyện Tân Bình nâng lên thành Phủ Tân Bình, tổng Bình Dương nâng lên thành huyện. Huyện Bình Dương được chia làm hai tổng là Bình Trị và Dương Hòa, lấy hai chữ tên huyện đặt lên đầu tên hai tổng.
Sang đến triều Minh Mạng, dân số tăng lên nhiều, đất ruộng cũng khai phá thêm, thôn ấp được thành lập thêm, nên địa bàn hai tổng trên đây thuộc huyện Bình Dương được chia làm 6 tổng mới, đặt tên theo cách thêm vào sau tên tổng cũ các chữ Thượng, Trung, Hạ để giữ được nguyên gốc, như cách đã áp dụng đặt tên cho các thôn mới tách từ thôn cũ. Do đó 6 tổng mới mang tên: Bình Trị Thượng, Bình Trị Trung, Bình Trị Hạ, Dương Hòa Thượng, Dương Hòa Trung, Dương Hòa Hạ. Năm Thiệu trị nguyên niên (1841) tách phần đất phía tây Bắc huyện Bình Dương, gồm một số thôn thuộc ba tổng Bình Trị Trung, Bình Trị Hạ, Dương Hòa Thượng để thành lập huyện mới đặt tên là huyện Bình Long. Huyện Bình Long là địa bàn Huyện Hóc Môn và huyện Củ Chi ngày nay.
Vào đầu những năm 1900, tỉnh Gia Định gồm có 4 quận là Thủ Đức, Nhà Bè, Gò Vấp và Hóc Môn. Địa bàn huyện Củ Chi thuộc quận Hóc Môn. Quận Hóc Môn có 5 tổng và 65 xã thôn. Tổng Long Tuy Hạ có 16 xã thôn, tổng Long Tuy Thượng có 18 xã thôn đều nằm trọn trên địa bàn ngày nay của huyện Củ Chi. Còn tổng Long Tuy Thượng và tổng Bình Thạnh Trung có một số xã thôn nay thuộc Củ Chi.
Cuối thời Pháp thuộc, chính quyền thực dân Pháp nhập một số xã thôn ít dân lại thành những xã mới rộng hơn, đông dân hơn. Vì thế quận Hóc Môn vào năm 1944 chỉ còn 28 xã. Tổng Long Tuy Hạ còn 4 xã là Thái Mỹ, Trung Lập, Phước Hiệp, Tân An Hội. Tổng Long Tuy Trung còn lại 4 xã là Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây, Nhuận Đức, Phú Hòa Đông. Các xã của hai tổng trên cộng thêm các xã Tân Phú Trung, Phước Vĩnh Ninh của tổng Long Tuy Thượng, , Tân Hòa, Tân Thạnh Đông của tổng Bình Thạnh Trung thuộc địa bàn huyện Củ Chi ngày nay. Các đơn vị hành chính này tồn tại suốt thời gian kháng chiến chống Pháp cho đến sau hiệp định Giơneve.
Ngày 29/4/1957 chính quyền Sài gòn ban hành Nghị định số 138-BNV-HC-NĐ ấn định các đơn vị hành chính của tỉnh Gia Định gồm có 6 quận, trong đó 4 quận đã có dưới thời Pháp thuộc, cộng thêm 2 quận mới là quận Tân Bình và quận Bình Chánh. Theo Nghị định này, địa bàn các tổng Long Tuy Thượng, Long Tuy Trung, Long Tuy Hạ được tách khỏi tỉnh Gia Định để đến ngày 30/8/1957 lập quận Củ Chi thuộc tỉnh Bình Dương. Tên Củ Chi chính thức được công nhận là địa danh cấp huyện cho đến nay. Cuối năm 1959 chính quyền cách mạng thành lập Huyện Củ Chi.
Đến năm 1963, chính quyền Sài gòn chia quận Củ Chi thành hai quận: quận củ Chi sáp nhập vào tỉnh Hậu Nghĩa mới thành lập, quận Phú Hòa thuộc tỉnh Bình Dương. Quận Củ Chi gồm các xã Phước Hiệp, Phước Vĩnh Ninh, Tân An Hội, Tân Phú Trung, Thái Mỹ và Trung Lập. Quận Phú Hòa có các xã An Nhơn Tây, Bình Mỹ, Nhuận Đức, Phú Hòa Đông, Phú Mỹ Hưng, Tân Hòa, Tân Thạnh Đông, Trung An.
Về phía ta, tháng 8 năm 1968 phân khu I quyết định chia Củ Chi ra thành hai huyện là huyện Nam Chi và huyện Bắc Chi.
Huyện Nam Chi gồm: Bình Mỹ B, Trung An 1, Trung An 2, Hòa Phú, Tân Thạnh Đông, Tân Thạnh Tây, Phú Hòa Đông, Phú Hòa Tây, Phước Vĩnh An, Tân Thông Hội, Tân Phú Trung. Huyện bắc Chi gồm: Thái Mỹ, Phước Thạnh, Phước Hiệp, Trung Lập Thượng, Trung Lập Hạ, An Nhơn Tây, Nhuận Đức, Phú Mỹ Hưng, An Phú, Tân An Hội. Tháng 3 năm 1973 ta thống nhất huyện Nam Chi và huyện Bắc Chi trở lại thành huyện Củ Chi.
Sau ngày 30/4/1975, chính quyền cách mạng được thành lập và bắt tay vào việc sắp xếp lại bộ máy và các đơn vị hành chính mới. Quận Củ Chi của tỉnh Bình Dương và quận Phú Hòa của tỉnh Hậu Nghĩa được sáp nhập vào địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, nhập chúng lại thành một đơn vị hành chính gọi là huyện Củ Chi.
Quyết định số 70-HĐBT ngày 11/7/1983 của Hội đồng Bộ trưởng chia xã Trung Lập thành hai xã mới lấy tên là Trung Lập Thượng và Trung Lập Hạ; chia xã Phước Hiệp thành hai xã mới lấy tên là xã Phước Hiệp và xã Phước Thạnh; giải thể xã Phạm Văn Cội 2 và tách ấp Phú Trung, Phú Bình xã Phú Mỹ Hưng, ấp Xóm Chùa, ấp Xóm Thuốc khỏi xã An Nhơn Tây để thành lập xã mới lấy tên là xã An Phú. Đổi tên xã Phạm Văn Cội I thành xã Phạm Văn Cội. Ngày 01 tháng 02 năm 1985 Hội đồng Bộ trưởng ban hành quyết định số 25-HĐBT về việc thành lập Thị Trấn huyện lỵ Củ Chi thuộc thành phố Hồ Chí Minh.
Tính đến ngày hôm nay, huyện Củ Chi có Thị Trấn Củ Chi và 20 xã là Tân Phú Trung, Tân Thông Hội, Tân An Hội, Phước Hiệp, Phước Thạnh, Thái Mỹ, Trung Lập Hạ, Trung Lập Thượng, An Nhơn Tây, An Phú, Phú Mỹ Hưng, Nhuận Đức, Phạm Văn Cội, Phú Hòa Đông, Tân Thạnh Tây, Trung An, Hòa Phú, Bình Mỹ, Tân Thạnh Đông, và Phước Vĩnh An.
Bất kể hàng triệu tấn bom cày đạn xới, người dân Củ Chi với tấm lòng yêu quê hương đất nước như thuở nào đã không làm hổ danh những người đã anh dũng ngã xuống cho mảnh đất anh hùng này. Củ Chi là Đất thép thành đồng, là niềm tự hào của nhân dân thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, cả nước nói chung. Niềm tự hào ấy được ghi dấu bằng khu Địa đào Củ Chi, với Đền Bến Dược. Từ ngày có kênh Đông đưa nước ngọt hồ Dầu Tiếng về tưới khắp ruộng đồng, Củ Chi đã trở thành vựa lúa của thành phố. Các khu công nghiệp đang phát triển khả quan.
Nằm giữa một bên là sông Sài gòn và kinh Thầy cai, có quốc lộ 22 trong tương lai là xa lộ xuyên quốc gia, các tỉnh lộ, đường liên xã, đường giao thông nông thôn đã và đang được nhựa hóa, với di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi và ngôi Đền Bến Dược cùng với các điều kiện thuận lợi do thiên nhiên ưu đãi, Củ Chi sẽ là nơi phát triển toàn diện trong tương lai không xa.
II. ĐẶC ĐIỂM DÂN CƯ VÀ CON NGƯỜI CỦ CHI:
1. Con người Củ Chi
Dân số Củ Chi có đến 31/12/2001 là 257.940 người trong đó 135.368 nữ và 122.572 nam với 58.428 hộ, bình quân số người trong một hộ là 4,4. Dân số phân bố theo các xã, thị trấn như sau:

Theo dòng thời gian, từ những năm cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, lưu dân người Việt đã tìm đến vùng đất nơi ở phương Nam để tránh loạn lạc chiến tranh và tìm phương kế sinh cơ lập nghiệp. Củ Chi đã được khai phá những ngày đầu khai hoang mở đất, lúc bấy giờ còn đầy rừng rậm với các loài thú dữ, cảnh vật hoang vu. Những người nông dân đầu tiên đến đây đã phải lao động gian khổ, chống các loại thú dữ và thiên nhiên khắc nghiệt, ra sức khai phá rừng rậm, bãi hoang, chịu khó trồng trọt, chăn nuôi, biến những vùng đất hoang vu này trở thành vùng đất canh tác màu mở.
Khi thực dân Pháp đến xâm lược nước ta, một số binh lính của triều đình nhà Nguyễn và những sĩ phu yêu nước không muốn hợp tác với giặc và tránh giặc, đã theo quân đội triều đình về đây lập căn cứ kháng chiến. Quá trình chống giặc và tránh giặc họ trở thành người dân thổ cư trên mảnh đất trù phú này.
Những người dân đầu tiên đến lập nghiệp và sinh sống trên đất Củ Chi là nạn nhân của chính sách áp bức, bóc lột tàn bạo của các thế lực phong kiến.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) cùng với việc đàn áp phong trào cách mạng, bọn thực dân Pháp xâm lược tiến hành chính sách khai thác thuộc địa với việc mở mang những đồn điền cao su ở miền Đông Nam bộ. Đất Củ Chi cũng biến thành những đồn điền cao su, từ đó xuất hiện thêm một tầng lớp dân cư nữa là công nhân cao su.
Năm 1954, sau khi hiệp định Giơneve có trên 10.000 người từ miền Bắc chuyển vào định cư ở Củ Chi, tập trung đông nhất ở thị trấn Củ Chi và xã Tân Phú Trung.
Năm 1970 có 12.632 người Việt sống ở Campuchia hồi hương về ấp Tân Thông, xã Tân An Hội, sau này là xã Tân Thông Hội.
Sau ngày 30/4/1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, qua chính sách giản dân và xây dựng vùng kinh tế mới của thành phố, năm 1976-1977, có khoảng 400 hộ gia đình được đưa từ nội thành đến định cư tại xã Phạm Văn Cội, An Phú, Tân An Hội.
Một số cán bộ, chiến sĩ công tác trên địa bàn Huyện Củ Chi, đưa người thân đến Củ Chi định cư, sinh sống.
Nhìn chung, dân Củ Chi đã được đến từ nhiều nơi và từ những thời điểm khác nhau, nhưng tất cả đều có nguồn gốc tổ tiên từ Bắc bộ. Sau thời gian dài, có người đi vào miền Trung rồi sau đó đến Củ Chi, có người từ Campuchia về, có người trực tiếp từ Bắc bộ, hoặc các địa phương khác đến.
Vì phải liên tiếp chống chọi với thiên nhiên, thú dữ ban đầu và chống bọn xâm lược sau này nên người dân Củ Chi đã nung nấu trong lòng mình tinh thần yêu nước, có lòng nhân ái, biết đoàn kết tương trợ, lao động cần cù, sáng tạo, thẳng thắn, cương trực, nói thẳng nói thật rồi sẵn sàng bỏ qua ở xứ đất rộng người thưa, buổi đầu chim trời cá nước, những người đi xa và ở đó dường như họ bỏ lại đằng sau mình những gì quá nặng nề, những xiềng xích, tập tục đã tồn tại hàng bao thế kỷ, vốn ít nhiều có đầu óc mạo hiểm, phát huy được cái vốn vô giá mang theo là niềm tự hào dân tộc có bốn ngàn năm lịch sử đã từng thắng giặc Hán, Tống, Nguyên, Mông, từng chế ngự sông Hồng, sông Mã. Niềm tự hào dân tộc trên vùng đất mới, hoàn cảnh mới đã hình thành nét đặc sắc trong con người Củ Chi.
2. Đặc điểm dân cư:
2.1. Hình thức cư trú:
Dân số tập trung chủ yếu dọc theo các trục giao thông, sông rạch và các khu công nghiệp. Các yếu tố chính chi phối sự cư trú là chiến cuộc, địa hình và điều kiện sinh sống. Kể từ năm 1967, cuộc chiến giữa ta và địch diễn ra ác liệt, dân chúng bị chính quyền cũ ép buộc, phải dời nhà đến sống chen chúc nhau tại các ấp “chiến lược”, còn gọi là ấp “Tân Sinh” hay ấp “Đời mới” dọc theo quốc lộ 22, tỉnh lộ 8, tỉnh lộ 7, tỉnh lộ 15 hay tụ tập quanh các đồn bót, thành ra làng mạc có hình dài hay hình tròn.
Trên địa bàn Củ Chi ngày nay, trong giai đoạn từ 1967-1975, chính quyền Sài gòn quản lý 12 xã bao gồm 5 xã thuộc quận Phú Hòa tỉnh Bình Dương (xã Tân Thạnh Đông, Bình Mỹ, Trung An, Tân Hòa và Phú Hoà Đông) và 7 xã thuộc quận Củ Chi tỉnh Hậu nghĩa (xã Trung Lập, Phước Hiệp, Tân An Hội, Phước Vĩnh Ninh, Tân Thông Hội và Tân Phú Trung), (sơ đồ các tụ điểm dân cư trên địa bàn Huyện Củ Chi 1967-1975).
Hình thức cư trú trên thể hiện rõ ý đồ thâm độc của địch, địch đã tập trung nhân dân quanh các đồn bót để dễ kiểm soát, đa số gia đình vẫn dũng cảm nuôi giấu cán bộ, chiến sĩ cách mạng ngay sát hàng rào địch, người dân còn báo tin cho lực lượng cách mạng về tình hình hoạt động của địch, đóng góp tiền của và gởi con em đi bộ đội.
Với tinh thần “bám đất giữ vườn”, một số gia đình có con em theo cách mạng đã tự động về chỗ cũ, sống trong các túp liều tranh tạm bợ, chấp nhận bom đạn, để tiếp tục canh tác ruộng vườn hầu nuôi sống gia đình và nhất là nuôi dưỡng và bảo vệ lực lượng cách mạng.
Ngay khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, dân chúng trở về làng cũ, cất nhà trên những vùng đất cao thành ra hình dạng các xóm ấp tùy thuộc vào hình dạng của địa hình. Nông dân tụ tập trên các vùng đất cao, vì vùng này có nước ngọt, ít phèn, thích hợp với việc trồng cây ăn trái và xây dựng nhà cửa, dân cư còn tập trung dọc theo các trục giao thông, gần chợ vì những nơi này thuận lợi cho việc mua bán, đi lại.
Từ ngày các khu công nghiệp được hình thành, các nhà máy xí nghiệp được xây dựng, người dân xây dựng nhà cửa, sinh sống xung quanh các nơi này khá nhiều.
2.2. Nếp sống:
Khi vùng quê chưa bị bom đạn tàn phá, nếp sinh hoạt ở nông thôn vẫn đượm màu sắc dân tộc cổ truyền, nghĩa là các thành phần dân cư tương trợ nhau trong công việc đồng áng, như vần công nhau trong việc cấy lúa làm đồng, sản xuất, thu hoạch và chế biến nông sản. Họ còn tương trợ nhau trong ngày xắt thuốc, trong những đám tang, đám giỗ, đám cưới... nghĩa là họ chia sẻ nhau những nổi vui buồn. Người nông dân còn trao đổi nhau những kinh nghiệm nhà nông sau một ngày làm việc cực nhọc. Họ tụ họp để bàn chuyện giữ xóm, giữ làng như bàn kế hoạch tương trợ khi có kẻ cướp, bàn chuyện cúng đình, miếu, giúp đỡ nhau lúc khó khăn vì họ quan niệm “một giọt máu đào hơn ao nước lã”, “bà con xa không bằng láng giềng gần”.
Trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, gia đình nông dân bị ly tán như cha xa con, vợ xa chồng, một số gia đình phải dời nhà vào các “ấp chiến lược”, “ấp tân sinh”, “ấp đời mới” không thể tiếp tục nghề nông, họ đành chuyển nghề làm công việc khác. Những nghề mới ít cần sự tương trợ lẫn nhau, hơn nữa tình hình an ninh không cho phép người dân tụ họp đông đảo vào ban đêm để trao đổi kinh nghiệm làm ăn. Do vậy, chiến tranh đã làm rạn nứt mối giao tiếp giữa các thành phần dân cư. Những thập niên gần đây, mặc dầu chiến tranh đã làm tổn thương tinh thần đoàn kết của dân làng, nhưng nó đem đến cho người nông dân một chân trời xa lạ, đó là sự giao tiếp với thế giới bên ngoài.
Thật vậy, ngày xưa người nông dân quanh năm suốt tháng đều bận rộn với công việc đồng áng. Họ ít có dịp rời khỏi làng xã, dần dần do điều kiện khách quan, nông dân được tiếp xúc với đủ thành phần xã hội và hiểu biết nhiều hơn.
Củ Chi ngày nay, điện đã đến khắp hộ dân, truyền hình, radio cassette, xe môtô hầu như nhà nào cũng có, nhiều người đã có xe ôtô, tiếng nổ của xe cơ giới khắp ruộng đồng thay hẳn tiếng bom đạn của ngày xưa. Những dòng kinh ngang dọc được kiên cố hóa tạo màu xanh tươi của cây trái thay hẳn hình ảnh đồng khô cỏ cháy của một thời xa xưa. Nông dân đã biết ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm tạo sản phẩm cho gia đình và cho xã hội.
Củ Chi đang thay da đổi thịt, trở thành một vùng đất đầy nhựa sống, đã và đang hấp dẫn dân từ các nơi khác đến, bởi lẽ đất lành chim đậu.
Ngày nay, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, cùng với sức sống và tính cách đã nêu, Củ Chi đang phát triển nhanh trên con đường đô thị hóa. Những khu công nghiệp được xây dựng, nhà máy xí nghiệp liên tiếp được xây dựng, bên cạnh những đồng ruộng, vườn cao su, mía, bắp, đậu phọng, vùng chăn nuôi vẫn hiện hữu,... con người Củ Chi vẫn tỏa sáng với những tính cách đẹp đẽ do thiên nhiên và lịch sử để lại.
Con người Củ Chi, tuy xuất phát từ nhiều nguồn gốc khác nhau, nhưng khi tụ cư về đây, đã cùng đoàn kết, hòa hợp chung sức chung lòng đánh địch, chống ngoại xâm bảo vệ quê hương. Đó là những người bình dị, chất phác, giàu lòng nhân ái, nhưng rất cứng cỏi kiên cường. Những con người ấy đã cùng nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và nhân dân cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ngay từ khi chúng mới đặt chân lên đất nước ta, kháng chiến chống Mỹ cứu nước cho đến ngày toàn thắng.