top of page
1975 - 2005 c2.png

- Từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 12 năm 1986 tại Thủ đô Hà Nội, Đảng ta tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Đại hội diễn ra trong bối cảnh tình hình quốc tế có những diễn biến phức tạp, đất nước đứng trước cuộc khủng hoảng kinh tế. Tình hình quốc tế và trong nước đã đặt ra yêu cầu bức thiết cho Đảng ta là phải đổi mới phương thức lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội thì mới đưa sự nghiệp cách mạng phát triển.

- Với tình thần trách nhiệm trước vận mệnh đất nước, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã phân tích sâu sắc những sai lầm, thiếu sót trong tổ chức thực hiện của 10 năm xây dựng đất nước thống nhất. Từ đó đề ra chủ trương đổi mới cách nghĩ, cách làm, đổi mới tổ chức cán bộ, thực hiện xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển hoạt động kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

- Đại hội lần thứ VI của Đảng đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, là đại hội hoạch định đường lối đổi mới. Cùng với các Đảng bộ quận, huyện của thành phố và cả nước, từ năm 1987 trở đi, Đảng bộ Củ Chi bước vào thời kỳ lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra.

I.- ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ CỦ CHI LẦN THỨ IV (9/1986) VỚI QUÁ TRÌNH TẬP TRUNG GIẢI QUYẾT NHỮNG VẤN ĐỀ CẤP BÁCH BƯỚC ĐẦU THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG (1986- 1988).

- Thực hiện chỉ thị 80 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và sự chỉ đạo của Thành ủy về việc tổ chức Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Từ tháng 7 đến tháng 9 năm 1986, Đảng bộ Củ Chi đã tiến hành đợt sinh hoạt chính trị tự phê bình và phê bình, đóng góp ý kiến cho các dự thảo văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ IV và tiến hành thành công Đại hội Đảng cấp cơ sở.

- Từ ngày… tháng 9 đến ngày …. tháng…. năm 1986 tại Trung Tâm văn hóa huyện, Đảng bộ huyện Củ Chi đã tiến hành Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ IV. Tham dự đại hội có 300 đại biểu đại diện cho trên 3.000 đảng viên của Đảng bộ.

- Thay mặt Ban chấp hành Đảng bộ khóa III, đồng chí Nguyễn Văn Thắng đã trình bày dự thảo “Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ III và những nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của Đảng bộ từ năm 1986- 1988 và đến năm 1990.

- Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ khóa III đã khẳng định những thành tựu đạt được và thắng thắn chỉ ra những yếu kém của Đảng bộ trong quá trình lãnh đạo triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị do Đại hội Đảng bộ lần thứ III đề ra.

- Trên cơ sở tình hình thực tiễn và yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ chính trị trong những năm 1986- 1988, Báo cáo chính trị đề ra mục tiêu tổng quát của Đảng bộ trong nhiệm kỳ IV là: “trên cơ sở phát triển sản xuất, trước hết là sản xuất nông nghiệp, ổn định và cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, tạo ra sự chuyển biến đáng kể về mặt xã hội, củng cố và tăng cường kinh tế quốc doanh, tập thể, phát triển có kế hoạch kinh tế gia đình, khai thác hết khả năng và tiềm năng đất đai, lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, củng cố và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, xây dựng nông thôn mới, con người mới làm chủ toàn diện, tạo ra nhiều phong trào hành động cách mạng của quần chúng, phấn đấu xây dựng Đảng bộ huyện vững mạnh”.

- Sau báo cáo kiểm điềm tình hình thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ III và phương hướng nhiệm vụ của Đảng bộ trong những năm 1986, 1988, Đại hội đã nghe đồng chí Tạ Quang Huy trình bày bản kiểm điểm của Ban chấp hành và Ban Thường vụ Huyện ủy nhiệm kỳ III (1983- 1986)

- Đại hội đã thông qua bản tổng hợp ý kiến đóng góp của đảng viên tại đại hội cơ sở cho các dự thảo văn kiện các cấp. Có gần 1.000 lượt ý kiến đóng góp cho các văn kiện dự thảo của Đại hội VI và Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ IV, trên 700 ý kiến cho dự thảo báo cáo của Đảng bộ huyện.

- Trong không khí dân chủ và thẳng thắn, đại hội đóng góp nhiều ý kiến quan trọng vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội VI của Đảng và Đảng bộ thành phố lần thứ IV. Đại hội đã dành nhiều thời gian để thảo luận dự thảo Báo cáo kiểm điểm công tác của Đảng bộ trong nhiệm kỳ III và phương hướng công tác nhiệm kỳ IV.

- Báo cáo chính trị đã xác định nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu của Đảng bộ huyện từ năm 1986- 1988 và đến năm 1990.

- Trên cơ sở vẫn xác định nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, ổn định và cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, nghị quyết đề ra phương hướng trọng tâm của huyện trong 2 năm (1986- 1988) là:

1- Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp – công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trước hết là sản xuất nông nghiệp theo hướng tập trung chuyên canh, thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất cây trồng và con vật nuôi, đặc biệt phát triển đúng mức cây công nghiệp ngắn ngày xuất khẩu là thế mạnh của huyện. Hình thành và ổn định cho được vùng lúa có năng suất cao, bảo đảm tự cân đối được lương thực và phát triển chăn nuôi, tích cực xây dựng huyện thành vành đai thực phẩm của thành phố. Phát triển nông nghiệp phải gắn với công nghiệp chế biến, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu, mở mang ngành nghề, giải quyết công ăn việc làm, ổn định và cải thiện một bước đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, trước hết là cán bộ công nhân viên chức, các lực lượng vũ trang, các đối tượng chính sách và quần chúng lao động nghèo không lao động và thiếu phương tiện sản xuất, đảm bảo về cơ bản nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại, chữa bệnh, học hành, vui chơi, giải trí, phấn đấu từng bước cải tiến và nâng cao chất lượng bữa ăn, đến năm 1990 ngói hóa và tole hóa từ 70- 75%.

2- Hướng đầu tư chủ yếu trong những năm tới là ưu tiên phục vụ sản xuất nông nghiệp, nâng cao giá trị nông sản, thực phẩm xuất khẩu và tiêu dùng, từng bước thực hiện 4 hóa: điện khí hóa, thủy lợi hóa, cơ giới hóa và vi sinh hóa. Vận dụng tốt hơn nữa phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, tiếp tục đầu tư xây dựng những công trình phúc lợi văn hóa, xã hội cần thiết để nâng cao đời sống văn hóa cho nhân dân.

3- Củng cố và hoàn thiện hơn nữa quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, công thương nghiệp và tiểu thủ công nghiệp gắn cải tạo với xây dựng, lấy xây dựng làm chính, gắn việc củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới với phát triển lực lượng sản xuất. Đi đôi với phát triển sản xuất và tăng cường hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, ổn định lưu thông phân phối, giá cả thị trường, bằng nhiều hình thức và bước đi thích hợp, đến năm 1988 nâng cao chất lượng cải tạo thương nghiệp và làm chủ thị trường.

4- Tiếp tục đẩy mạnh cách mạng văn hóa và tư tưởng, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt nông thôn của huyện, góp phần phát triển kinh tế, xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội. Đảm bảo đủ trường lớp cho các cháu, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, làm tốt công tác bảo vệ sức khỏe và rèn luyện thân thể, thực hiện tốt hơn nữa công tác thương binh và xã hội, đảm bảo về cơ bản nhu cầu văn hóa- văn nghệ của nhân dân, kể cả các vùng xa xôi hẻo lánh trong huyện.

5- Kết hợp tốt kinh tế với quốc phòng, xây dựng lực lượng công an, quân sự trong sạch vững mạnh về mọi mặt, kịp thời đánh bại kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, sẳn sàng bảo vệ đất nước và làm tốt nghĩa vụ quốc tế. Đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc và phong trào quốc phòng toàn dân, giáo dục và quản lý tốt thanh niên, làm tốt công tác tuyển quân và chính sách hậu phương quân đội.

6- Xây dựng Đảng bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao lập trường, quan điểm giai cấp năng lực lãnh đạo và tổ chức thực hiện, đổi mới tư duy và phong cách lãnh đạo phù hợp với tình hình và cơ chế quản lý mới. Công tác xây dựng và phát triển Đảng phải gắn chặt với phong trào hành động cách mạng của quần chúng, từng bước đổi mới cơ cấu đảng viên theo hướng trẻ hóa đội ngũ và tăng cường cho cơ sở.

- Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ khóa IV gồm 39 đồng chí chính thức và 10 đồng chí dự khuyết.

- Trong phiên họp thứ nhất Ban chấp hành khóa IV đã bầu Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí. Ban thường vụ đã nhất trí bầu đồng chí Trần Văn Nguyên giữ chức vụ Bí thư huyện ủy, đồng chí Cao Văn Nghiệt giữ chức vụ Phó Bí thư huyện ủy.

- giờ……. Ngày……/…../1986 Đại hội đại biểu huyện Củ Chi lần thứ IV đã biểu quyết thông qua nghị quyết của Đại hội.

- Sau 3 ngày làm việc nghiêm túc, thẳng thắn dân chủ, có tính nhiệm Đại hội Đảng bộ huyện Củ Chi đã thành công tốt đẹp. Đánh giá kết quả của đại hội, trong diễn văn bế mạc đồng chí Bí thư huyện ủy nêu rõ: “Với thái độ đánh giá đúng sự thật, nhìn thẳng vào sự thật và nói rõ sự thật, Đại hội đã thảo luận và nhất trí thông qua báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ III và những nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của Đảng bộ nhiệm kỳ 1986- 1988 và đến năm 1990”.

- Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Củ Chi lần thứ IV diễn ra trong bối cảnh cả nước đang dấy lên phong trào thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI và chờ đón đường lối đổi mới do Đại hội đề ra. Sự thành công của đại hội là biểu hiện sự tập trung trí tuệ của tập thể Đảng bộ và nhân dân trong huyện đã đóng góp trước và trong đại hội, thể hiện sự nhất trí của Đảng bộ và nhân dân Củ Chi với đường lối đổi mới do Đại hội VI khởi xướng.

- Đảng bộ và nhân dân Củ Chi bước vào thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trong bối cảnh tình hình chính trị thế giới có những biến động bất lợi cho hệ thống xã hội chủ nghĩa do sai lầm trong cải cách, cải tổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và hậu quả của cuộc tổng điều chỉnh giá- lương- tiền năm 1985 làm cho nền kinh tế nước ta vốn đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Bên cạnh đó những ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp vẫn còn in đậm trong nếp nghĩ và phong cách làm việc của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ cũng là những lực cản không nhỏ đến việc triển khai thực hiện đường lối đổi mới của Đảng bộ.

- Sau đại hội, Huyện ủy đã mở nhiều lớp quán triệt Nghị quyết của đại hội cho toàn thể cán bộ đảng viên trong Đảng bộ, đồng thời tổ chức thực hiện nghị quyết đại hội.

- Đảng bộ Củ Chi bước vào lãnh đạo thực hiện kế hoạch kinh tế- xã hội năm 1987, trong bối cảnh cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng giữa cái mới và cái cũ diễn ra rất dằng co trong nội bộ cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện; cơ chế quản lý mới chưa đồng bộ; tình trạng thiếu điện thiếu vốn và vật tư cho sản xuất chưa được cải thiện. Tất cả những trở ngại đó đều ít nhiều làm ảnh hưởng đến kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của huyện.

- Năm 1987, Huyện ủy và Uỷ ban nhân dân huyện đã tập trung chỉ đạo một số công tác trọng tâm như bầu cử Quốc hội khóa VIII và Hội đồng nhân dân huyện khóa V, lãnh đạo chuyển đổi cơ chế quản lý và chăm lo đời sống nhân dân.

- Để phát triển nền sản xuất nông nghiệp, ngày 5/4/1988 Bộ chính trị ra “nghị quyết số 10 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp”, nghị quyết 10 của Bộ chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp đã tạo ra một sinh khí mới trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của huyện.

- Nhìn chung, từ năm 1986- 1988 các mặt kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, công tác xây dựng Đảng, chính quyền, công tác quần chúng của huyện đã có những chuyển biến tiến bộ bước đầu theo hướng đổi mới, đặc biệt trong mặt trận sản xuất nông nghiệp về diện tích, sản lượng cây trồng, con vật nuôi đều tăng. Đời sống nhân dân được cải thiện hơn trước như lương thực, thực phẩm, nhà ở và các điều kiện sinh hoạt phúc lợi khác đều được tăng lên rõ rệt. Những sự phát triển nêu trên đã thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng trên các lĩnh vực kinh tế- xã hội.

- Tuy nhiên, bên cạnh những mặt làm được nêu trên cũng còn một số mặt hạn chế, các vấn đề đặt ra thật mới mẽ nhưng điều kiện tổ chức thực hiện còn nhiều khó khăn, phức tạp, trong khi đó nhận thức của cán bộ đảng viên, quần chúng nhân dân chưa chuyển kịp theo tinh thần đổi mới.

- Kết quả thực hiện Nghị quyết Đảng bộ huyện lần thứ IV (1986- 1988) như sau:

1/ Về Kinh tế:

- Huyện tích cực chỉ đạo đầu tư cho nông nghiệp từ việc xây dựng hệ thống thủy lợi kênh Đông theo công suất thiết kế là 10.017 ha, đến năm 1988 đã tưới được 8.000 ha, kéo 37 km đường điện trung thế, 75 trạm hạ thế đưa tổng công suất lên 10.933 KVA và một số vật tư chủ yếu cho sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra cơ chế mới cũng được ban hành đã tạo cho nhân dân phấn khởi và an tâm bỏ vốn ra đầu tư sản xuất nhiều hơn… Những điều kiện trên đã góp phần tích cực cho việc đưa diện tích gieo trồng lên 37.726 ha, tăng 2.517 ha so với năm 1986, trong đó có 5.000 ha lúa cao sản, hệ số sử dụng từ 1, 2 đến 1, 4 lần, năng suất bình quân 3,1 tấn/vụ/ha với sản lượng 76.235 tấn. Tổng đàn trâu bò, đàn gia cấm và heo tăng đáng kể, đàn heo năm 1987 là 32.267 con năm 1988 lên 34.212 con. Việc nuôi trồng thủy sản tăng lên nhất là nuôi cá nước ngọt dọc tuyến kênh Đông. Nông nghiệp phát triển, đời sống nhân dân được tăng lên một bước kể cả về nhà ở, phương tiện đi lại và tư liệu sinh hoạt.

- Sản lượng ngành công nghiệp tăng bình quân mỗi năm là 10% nhưng so với kế hoạch thì mới đạt 50%. Sản xuất công nghiệp tiểu thủ công nghiệp chưa được nghiên cứu, sắp xếp một cách hợp lý, mặt hàng còn đơn điệu, số lượng ít, chất lượng sản phẩm còn kém, giá thành cao khó tiêu thụ.

- Trong xây dựng một số hạn mục công trình thủy lợi còn để kéo dài, hoặc quản lý khai thác chưa tốt. Năng lực vận tải, phương tiện đi lại, giao thông nông thôn, giao thông đồng ruộng phát triển chậm.

- Lưu thông phân phối, thương nghiệp xã hội chủ nghĩa còn dựa vào cơ chế cũ, phương thức kinh doanh chậm đổi mới, chưa làm chủ thị trường.

- Ngân sách nhìn chung còn căng thẳng, nhất là ngân sách xã, còn nhiều xã chưa có kinh phí cấp lương cho cán bộ, đời sống của cán bộ còn nhiều khó khăn.

- Việc nhận thức, vận dụng thực hiện một số chính sách về kinh tế của Trung ương chưa sâu, chưa kỷ, chưa kịp thời cụ thể hóa nên một số cơ sở kinh tế quốc doanh gặp nhiều khó khăn, biên chế nặng nề, làm không nuôi nổi bộ máy, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh chưa được phát huy đúng mức. Kinh tế tập thể do ảnh hướng cơ chế cũ khi chuyển sang cơ chế mới còn nhiều lúng túng.

- Nói chung tình hình kinh tế của huyện đang gặp nhiều khó khăn, sức sản xuất hàng hóa còn thấp, năng lực sản xuất kinh doanh, trình độ quản lý điều hành còn hạn chế. Tiềm năng kinh tế (bao gồm đất đai, lao động, nguồn vốn và cơ sở vật chất) chưa được huy động hết và xây dựng có hiệu quả.

2/- Về văn hóa xã hội:

- Hai năm qua, cùng với những bước phát triển kinh tế, chính sách và biện pháp về chăm lo các vấn đề xã hội cũng đã được Đảng bộ nhận thức, từng bước tổ chức có hiệu quả.

- Sự nghiệp giáo dục vẫn được duy trì, một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục được thực hiện, nhưng chất lượng giáo dục toàn diện có những giảm sút, đặc biệt là chất lượng đạo đức, tình trạng học sinh bỏ học ngày càng nhiều, cơ sở vật chất còn thiếu thốn khó khăn, sự quan tâm của toàn xã hội chưa được đúng mức.

- Các hoạt động văn hóa thông tin, tuyền thanh có những cố gắng trong việc bám sát đường lối, quan điểm của Đảng để phục vụ các nhiệm vụ chính trị. Tuy nhiên còn một số hoạt động văn hóa, văn nghệ chưa được kết hợp hài hòa giữa phục vụ và kinh doanh. Việc lựa chọn một số phim ảnh phục vụ trên địa bàn huyện chưa thật phù hợp gây ảnh hưởng tâm lý không tốt trong quần chúng nhân dân.

- Hoạt động y tế có nhiều cố gắng trong việc phòng chống dịch và khám trị bệnh, sức khỏe bà mẹ, trẻ em được quan tâm hơn trước. Công tác thể dục thể thao có những mặt tiến bộ hơn trước nhưng chưa thành phong trào sâu rộng trong quần chúng.

- Chính sách xã hội luôn được quan tâm tổ chức thực hiện nhưng vẫn còn một số gia đình chính sách, nhất là những gia đình neo đơn, thiếu sức lao động còn gặp khó khăn, chúng ta vẫn chưa có biện pháp tích cực để huy động sự đóng góp của toàn xã hội để chăm lo tốt hơn đối tượng này.

3/- Về an ninh quốc phòng:

- Cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân, các lực lượng vũ trang, nhận thức được 2 nhiệm vụ chiến lược trong giai đoạn mới. Tuy nhiên ở một số cơ sở, sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền trong lĩnh vực này chưa được quan tâm đúng mức, công tác gọi thanh niên nhập ngũ hàng năm còn gặp nhiều khó khăn năm 1987 chỉ đạt 81%, năm 1988 đạt 100%. Công tác an ninh chính trị được giữ vững, riêng tình hình trật tự an toàn xã hội có những diễn biến phức tạp, các tội phạm hình sự có tăng so với trước, nhưng các ngành chức năng chưa chủ động đề ra được biện pháp ngăn chặn triệt để.

4/- Về xây dựng Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước, chăm lo công tác quần chúng:

- Nhìn chung công tác tư tưởng còn lúng túng chưa có nội dung, phương pháp theo kịp diễn biến của tình hình. Việc tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết một số nơi thiếu chu đáo, sơ sài, những quan điểm mới chưa được thấm sâu và nhuần nhuyển trong từng cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Nhận thức của một bộ phận đảng viên chưa sâu sắc, còn giản đơn, thiếu nhiệt tình trong công tác, chưa mạnh dạn đấu tranh tự phê bình và phê bình biểu hiện lệch lạc, tiêu cực. Đặc biệt tư tưởng bảo thủ trì trệ còn nặng hệ thống và đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng từ huyện đến cơ sở còn hạn chế. Công tác tổ chức cũng còn nhiều hạn chế, Công tác cán bộ chưa quy hoạch việc hiểu con người bố trí sử dụng cán bộ chất lượng chưa cao. Phân công bố trí cán bộ chưa hợp lý, có lúc, có việc còn nặng tính chủ quan. Đối với cán bộ kém năng lực còn chần chừ chưa kiên quyết thay thể, ngược lại số cán bộ có triển vọng thì không nâng lên giao nhiệm vụ kịp thời, cho nên công tác cán bộ vừa thừa lại vừa thiếu, theo yêu cầu bố trí thì không đáp ứng được. Năng lực trình độ quản lý trong cán bộ chủ chốt huyện, xã còn yếu, đào tạo cán bộ nhiều nhưng chưa bố trí đúng chỗ, phát huy hiệu quả ít, có chú ý xây dựng đảng bộ các xã và đảng bộ, chi bộ các đơn vị sản xuất kinh doanh nhưng chưa đủ mạnh. Công tác kiểm tra còn nặng về kiểm tra xử lý kỷ luật, chưa coi trọng biện pháp giáo dục để ngăn ngừa sai phạm.

- Nói chung công tác tổ chức bộ máy chính quyền được kiện toàn một bước nhưng hiệu quả vẫn còn thấp.

- Công tác quần chúng đạt được một số kết quả nhất định nhưng nội dung, hình thức hoạt động chưa đổi mới thích hợp, chưa tạo được phong trào cách mạng của quần chúng ở cơ sở một cách mạnh mẽ.

- Nguyên nhân những ưu khuyết điểm:

Ưu điểm:

- Đảng bộ có tập trung trí tuệ vận dụng thích hợp các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên vào điều kiện cụ thể của huyện, mạnh dạn tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, ngay từ đầu đã có hướng đi đúng như tập trung xây dựng mạng lưới điện, hệ thống thủy nông kênh Đông, gắn sản xuất với chế biến và lưu thông phân phối.

- Tư tưởng công thần, bao cấp từng bước được khắc phục, trong chỉ đạo có chú ý phát huy tính công khai, dân chủ, biết lấy lực lượng chính sách, nhất là đội ngũ cán bộ hưu trí lắm hậu thuẩn, làm chổ dựa vững chắc cho địa phương. Quan tâm đẩy mạnh công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Phong cách lãnh đạo sâu sát cơ sở, giải quyết từng vấn đề cụ thể, nhất là mở cơ chế. Phong trào đổi mới lúc đầu chưa chuyển biến, nhưng dần về sau thì thực hiện tích cực, mạnh dạng đưa ra mô hình nông – công- thương- tín- dịch vụ, xuất khẩu tạo được một số mặt bước đầu cho sản xuất kinh doanh của huyện.

Khuyết điểm:

- Nhận thức tư tưởng quan liêu bao cấp của Đảng bộ còn rất nặng tuy mới có chuyển biến chừng mực trong từng lĩnh vực nhưng chưa theo kịp với tình hình nhiệm vụ mới. Chưa làm tốt việc quán triệt các chủ trương, chính sách và cung cấp thông tin 2 chiều đến đảng viên và quần chúng, chưa thật sự lấy dân làm gốc. Việc nhận thức sâu sắc, tập trung dân chủ thiểu số phục tùng đa số, tập thể lãnh đạo đi đôi với cá nhân phụ trách theo chức năng còn hạn chế, một số cấp ủy viên từ huyện đến cơ sở chưa đủ mạnh, tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm còn yếu, chưa kiên quyết đấu tranh bảo vệ cái đúng, cái chân lý vì lợi ích chung, còn chần chừ do dự trước khó khăn.

- Trong chỉ đạo thiếu tập trung, thiếu liên tục, thiếu hệ thống, chiều sâu, không đến nơi đến chốn, có sự vụ giải quyết kéo dài hàng năm nhưng đảng viên và quần chúng chưa chấp nhận. Việc sơ, tổng kết rút kinh nghiệm và nhận điển hình tiên tiến còn yếu. Do đó trong cơ chế mới mở ra nhận thức còn chậm, chưa đồng bộ trong Đảng bộ nân vận dụng lúng túng, nhiều ràng buốc, làm cản trở rất lớn trong công cuộc đổi mới và những tiến bộ mới. Nhìn chung, tuy có đổi mới nhưng còn chậm và chưa nhiều, chỉ mới trong nghị quyết Trung ương Ban Thường vụ, Ban chấp hành và một số ban ngành của huyện, khi xuống cơ sở việc thực hiện đổi mới không đồng bộ và càng chậm hơn.

- Việc nắm và hiểu rõ cán bộ chưa sâu, chưa căn cơ, do đó sự đánh giá giáo dục bồi dưỡng, bố trí, quản lý kiểm tra cán bộ không được thực hiện một cách có kế hoạch và nề nếp. Thiếu kết hợp quy hoạch gắn với đào tạo, chưa tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng bộ, bộ máy nhà nước từ huyện đến cơ sở cho phù hợp với yêu cầu đổi mới.

- Hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên chưa vững mạnh, ý chí chiến đấu của một số đảng viên còn quá thấp, nhất là ở cơ sở. Kỷ luật đảng viên chưa được đề cao, sinh hoạt chi bộ lỏng lẻo, chất lượng không bảo đảm, công tác quản lý cán bộ đảng viên thiếu chặt chẽ, phân công giao việc không rõ ràng, việc thực hiện tự phê bình và phê bình chưa thường xuyên, nhất là chi bộ nhỏ bên dưới chưa đáp ứng được yêu cầu chính trị.

- Việc kiểm tra về nề nếp, chế độ, chức trách và kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết của Đảng đối với cấp ủy viên, cán bộ, đảng viên không kịp thời, nhằm bổ sung sửa đổi những cái chưa phù hợp với tình hình mới đồng thời uốn nắn những lệch lạc trong thực hiện nghị quyết và trong nhiệm vụ cụ thể. Chưa nhanh chóng và kiên quyết thay thế những cán bộ kém năng lực, phẩm chất, không thực hiện nghị quyết của Đảng, tùy tiện, xuyên tạc lẽ phải, không hoàn thành nhiệm vụ theo chức trách.

- Sự lãnh đạo của Đảng đối với ngành nội chính còn thiếu sót, chưa vạch ra được yêu cầu nội dung để lãnh đạo khối nội chính chuyển đổi phương thức hoạt động phù hợp với tinh thần mới, nên có những ảnh hưởng nhất định đến mô hình phát triển sản xuất kinh doanh mới.

- Phong cách làm việc chậm đổi mới, chưa bám vào quy chế, còn quan liêu giấy tờ, xa rời quần chúng, làm giảm lòng tin trong nhân dân.

- Qua những mặt thuận lợi khó khăn, nguyên nhân của những ưu, khuyết điểm, tuy có nguyên nhân khách quan chi phối nhưng trước hết cần khẳng định là kiến thức, năng lực, sự nhận thức theo tinh thần đổi mới từ huyện đến cơ sở của tất cả cán bộ đảng viên và nhân dân chưa nhuần nhuyển chưa đều, còn hạn chế trong việc vận dụng tổ chức thực hiện nên tình hình kinh tế-xã hội của huyện chưa được phát huy một cách tương xứng với tiềm năng, thế mạnh về đất đai, lao động và cơ sở vật chất.

VI.- ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ  CỦ CHI LẦN THỨ V (7/1989) VƠI QUI TRÌNH TẬP TRUNG GIẢI QUYẾT NHỮNG VẤN ĐỀ CẤP BÁCH, BƯỚC ĐẦU THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG ĐỔI MỚI (1989-1991).

- Thực hiện Chỉ thị 37/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Công văn số: 54/CT của Thành ủy về việc tiến hành Đại hội Đảng cấp cơ sở và cấp trên trực tiếp cơ sở. Từ tháng 8/1988 đến tháng 5/1989, Ban thường vụ Huyện ủy đã tập trung chỉ đạo tất cả các cơ sở Đảng trong toàn Đảng bộ tổ chức Đại hội chi, Đảng bộ cơ sở và chuẩn bị cho Đại hội Đảng bộ Huỵên lần thứ V.

- Đại hội, đại biểu Đảng bộ Huyện lần thứ V diễn ra trong bối cảnh tình hình  chính trị thế giới có những biến động bất lợi cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, có lợi cho các lực lượng phản động quốc tế. Ở trong nước tình hình kinh tế- xã hội vẫn chưa được cải thiện sau 2 năm triển khai thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra.

- Sau phần nghi lễ, Đại hội đã nghe báo cáo về “Tình hình và nhiệm vụ của Đảng bộ Huyện Củ Chi”, của Ban chấp hành khóa IV, báo cáo trước Đại hội những vấn đề lớn để thấy rõ những việc làm được, những việc chưa làm được trong phát triển kinh tế, chăm lo những vấn đề xã hội cũng như công tác xây dựng Đảng theo quan điểm đổi mới mà Nghị quyết Đại hội VI đã nêu từ đó xác định những chủ trương, những mục tiêu phấn đấu trong 2 năm tới (1989-1990).

- Kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng bộ trong nhiệm kỳ IV, báo cáo chính trị đã thẳng thắn nêu ra những mặt mạnh và mặt yếu trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện lần IV là:

- Về mặt mạnh: Trong chỉ đạo, Huyện ủy luôn quan tâm toàn diện các lĩnh vực đời sống xã hội trong đó đặc biệt  chú ý 2 mặt phát triển và xây dựng lực lượng xây dựng Đãng.

- Nhìn chung qua các mặt kinh tế- xã hội, an ninh- quốc phòng, công tác xây dựng Đảng, chính quyền, công tác quần chúng của Huyện trong hai năm qua đã có những chuyển biến tiến bộ bước đầu theo những đổi mới, đặc biệt trong mặt trận sản xuất nông nghiệp về diện tích, sản lượng cây trong mặt trận sản xuất nông nghiệp về diện tích, sản lượng cây tròng, con vật nuôi đều tăng. Đời sống của nhân dân được cải thiện hơn trước như lương thực, thực phẩm, nhà ở và các điều kiện sinh hoạt khác đều được tăng lên rõ rệt.

- Về mặt yếu: Nhận thức của cán bộ Đảng viên, quần chúng nhân dân chưa chuyển kịp tinh thần đổi mới. Đội ngũ cán bộ bước đầu có tìm tòi học hỏi, sáng tạo đổi mới cách nghĩ, cách làm nhưng còn ít, nên việc vận dụng cụ thể hóa  và tổ chức thực hiện các Nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước còn nhiều lúng túng, chưa thật sự sâu sát, nhuần nhuyễn, do đó chưa khai thác hết thế mạnh tiềm năng của các thành phân kinh tế, chưa đáp ứng được đòi hỏi của tình hình sản xuất, yêu cầu nguyện vọng của quần chúng nhân dân.

-  Đại hội Đảng bộ Huỵên lần V đã xác định những chủ trương, biện pháp, những mục tiêu phấn đấu trong 2 năm 1989-1990.

- Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ Huyện lần thứ V được sự thống nhất cao của đại biểu chỉ rõ phương hướng chung Đảng bộ cần tập trung thực hiện trong hai năm 1989-1990 là:

- Tập trung phát triển nông nghiệp toàn diện trong đó chú ý phát triển công nghiệp chế biến để nâng cao các mặt hàng nông sản. Sắp xếp bố trí lại lao động, giải quyết công ăn, việc làm cho người lao động, nâng dần đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Phần đấu bảo đảm an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội, thực hiện quốc phòng toàn dân. Mở rộng dân chủ cơ công khai trên mọi mặt, có lãnh đạo định hường. Ra sức  xây dựng Đảng bộ vững mạnh.

Nhiệm vụ mục tiêu cụ thể được đề ra trong những năm 1989-1990 là:

- Phấn đến năm 1989 đưa tổng sản lượng lương thực đạt 83.500 tấn, năm 1990 là 87.000 tấn trong đó lúa 84.000 tấn, năng suất bình quân từ 3,2 tấn/ha/vụ.

- Trồng mới từ 500-800 ha cây cao su nhằm đưa tổng diện tích cao su của Huyện lên 5000 ha.

- Phấn đầu đạt 50.000 con heo và 1,1 triệu gia cầm, giữ vững đàn trâu bò, phát động nuôi bò sữa, tôm, cá.

- Tổ chức lại sản xuất công nghiêp- tiểu thủ công nghiệp phù hợp với cơ chế quản lý mới, phát huy hết năng lực, phương tiện, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, khai thác tốt tiềm năng nguyên liệu địa phương, mở rộng liên doanh, liên kết tạo thêm nguồn vật tư nguyên liệu. Tập trung phát triển công nghiệp chế biến nhằm tác động tích cực và thúc đẩy sản xuất nông nghiệp cho tiêu dùng và xuất khẩu.

- Xây dựng các công trình thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân, trước nhất là tập trung hoàn chỉnh và xây dựng mới một số công trình thủy lợi vừa và nhỏ, hoàn chỉnh các hệ thống cầu, cống trên các tuyến đường, đẩy mạnh phong trào làm thủy lợi nội đồng. Có kế hoạch xây dựng thêm một số trạm và đường điện phục vụ sản xuất, đời sống của nhân dân.

- Phân cấp cụ thể cho xã, thị trấn quản lý sữa các tuyến đường trong xóm, ấp.

- Tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động của các ngành phân phối lưu thông, từng bước ổn định ngành hàng phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu. Sắp xếp lại hệ thống thương nghiệp, dịch vụ, mở rộng các hình thức đại lý nâng cao năng lực và hiệu quả kinh doanh của hợp tác xã mua bán xã, đáp ứng nhu cầu hàng hóa tiêu dùng của nhân dân.

- Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện theo xu hương đổi mới, đặc biết là quan tâm đến chất lượng dạy và học, nhất là giáo dục đạo đức, kết hợp chặt chẽ 3 môi trường giáo dục. Tiêu chuẩn và hợp lý hóa đội ngũ cán bộ, giáo viên, công nhân viên ngành giáo dục. Phấn đấu xóa mù chữ, phổ cập cấp I, phát triển cấp II, mẫu giáo, nhà trẻ. Củng cố trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp và trung tâm dạy nghề đi vào hoạt động đúng chức  năng.

- Đẩy mạnh các hoạt động văn hóa nghệ thuật lành mạnh, tích cực phát triển phong trào văn nghệ quần chúng. Xây dựng nếp sống văn minh trong nhân dân, lãnh đạo đài truyền thanh và tờ tin của Huyện thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị kịp thời phục vụ sự lãnh đạo chung.

- Tăng cường giáo dục truyền thống ngày càng sâu rộng trong nhân dân, sưu tầm và xây dựng các di tích lịch sử.

- Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân. Tăng cường y, bác sĩ cho xã và thị trấn nhằm đảm bảo thật tốt việc phòng chống các loại dịch bệnh, làm tốt công tác phòng bệnh, ngăn ngừa các bệnh truyền nhiễm…

- Nâng cao chất lượng hoạt động của ngành thể dục thể thao, đẩy mạnh phong trào ở cơ sở, trong trường học, cơ quan, xí nghiệp và hướng mọi hoạt động thể dục thể thao đi vào phục vụ sức khỏe và tăng cường thể lực cho nhân dân.

- Vận động toàn Đảng, toàn dân thực hiện chính sách thương binh xã hội. Phấn đấu đến năm 1990 xóa dần các nhà tre dột nát trong diện chính sách và xây dựng mới 300 nhà tình nghĩa. Phấn đấu đến năm 1990 có 80% nhà ngói, 5% nhà tol

- Về lương thực, phấn đấu năm 1989 bình quân 400kg/người năm 1990 lên 415kg/người/năm.

- Huy động sức mạnh tổng hợp xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp. Phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc với tinh thần nhân dân làm chủ xóm ấp nhằm đấu tranh chống các loại tội phạm bảo vệ tốt an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội.

- Thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, Đảng viên và nhân dân. Ra sức củng cố kiện toàn các tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo, làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Quan tâm lãnh đạo cho tất cả cán bộ Đảng viên đều sống theo hiến pháp và làm việc theo pháp luật. Nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác kiểm tra. Kiểm tra vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở trong việc thực hiện Nghị quyết của Đảng. Kiểm tra vai trò của Đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, phẩm chất năng lực công tác và chấp hành pháp luật Nhà nước.

- Đối với ông tác vận động quần chúng phải làm cho toàn Đảng quán triệt sâu sắc về quan điểm quần chúng của Đảng. Tăng cường công tác vận động quần chúng, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.

- Đánh giá đúng vai trò của Đoàn thanh niên thật sự là cánh tay đắc lực của Đảng, tập hợp hầu hết thanhniên vào tổ chức.

- Củng cố tổ chức phụ nữ, nâng cao chất lượng hội viên, thu hút đông đảo chị em vào tổ chức hội, xây dựng và phát huy vai trò của chi hội. Bồi dưỡng đào tạo cán bộ hội.

- Hội nông dân gương mẫu phát triển sản xuất, thực hiện tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước.

- Mặt trận Tổ quốc động viên mọi người tham gia và thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế xã hội, làm tốt công tác tôn giáo và công tác dân tộc của Đảng.

- Đối với công tác điều hành của Bộ máy Nhà nước, Nghị quyết đề ra yêu cầu Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ theo quy định của hiến pháp và pháp luật. Tăng cường củng cố Hội đồng nhând ân làm đầy đủ chức năng là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước địa phương. Ủy ban nhân dân cần thực hiện tốt hơn nữa chức năng quản lý Nhà nước đối với tất cả các hoạt động kinh tế- xã hội và an ninh- quốc phòng. Kiện toàn và nâng cao các hoạt động của phong ban trực thuôc Ủy ban nhân dân. Tổ chức tốt bộ máy xã, thị trấn, củng cố ban nhân dân ấp, tổ nhân dân, tổ dân phố đủ mạnh, hoạt động có hiệu quả. Phấn đấu đến năm 1989 có 2/3 xã tự lực ngân sách, đến năm 1990 các xã đều chủ động tự cân đối ngân sách.

- Với sự nổ lực, cố gắng của Đảng bộ và nhân dân thực hiện Nghị quyết, Đại hội Đảng bộ Huỵên lần thứ V đã đạt được những kết quả  bước đầu quan trọng, mở ra những khả năng và triển vọng mới cho những năm sắp tới.

- Đại hội Đảng bộ Huyện, lần thứ VI có nhiệm vụ tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ V, đánh giá những việc làm được, chưa làm được, đã có nhận định đánh giá như sau:

- Qua 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ V kết quả như sau:

1/- Về thành tựu:

- Đã khơi dậy được ý thức trách nhiệm của cán bộ đảng viên và quần chúng vượt qua những khó khăn thử thách sớm khắc phục những va vấp cũ. Bộ mặt nông thôn có những thay đổi lớn, đồng thời giải quyết có kết quả nhiều mặt về đời sống và sản xuất của nhân dân.

- Trên lĩnh vực kinh tế, sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển khá, một số cây trồng chính phát triển nhanh cả về diện tích năng suất và sản lượng như lúa, đậu phọng, ngăn chăn được tình trạng lỗ lã và tổn thất của các đơn vị kinh tế quốc doanh, số đơn vị còn lại trụ lại được với cơ chế mới và bắt đầu làm ăn có hiệu quả, giải quyết được cơ bản tình hình nợ nần, các hợp tác xã, nhất là hợp tác xã tín dụng. Tình hình ngân sách bơt khó khăn căng thẳng hơn trước.

- Cơ sở hạ tầng quan trọng như điện, thủy lợi, giao thông…tăng thêm đáng kể. Sự đóng góp của quần chúng trong việc xây dựng các cơ sở hạ tầng có chuyển biến tích cực đạt kết quả tốt.

- Đời sống vật chất tinh thần của một bộ phận nhân dân đượ nâng lên nhất là về nhà ở, tiện nghi sinh hoạt gia đình, giải quyết công ăn việc làm…

- Tình hình an ninh chính trị được giữ vững, công tác chống buôn lậu và các hiện tượng tiêu cực đã đạt được một số kết quả bước dầu.

- Hệ thống chính trị được tăng cường củng cố, các cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên có sự chuyển biến mới về chất. Nguyên tắc tập trung dân chủ được phát huy, đoàn kết nội bộ được giữ vững và có nhiều chuyển biến tốt.

Bên cạnh những thành tựu, Huyện còn những yếu kém khuyết điểm là:

- Ngành chăn nuôi và sản xuất công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp phát triển chậm, kinh tế quốc doanh tuy có bước phát triển nhưng còn lúng túng về nội dung, phương thức hoạt động. Ngân sách tuy có khá hơn trước nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thuế nông nghiệp đạt thấp so với kế hoạch. Tình hình tranh chấp ruộng đất trong nội bộ nông dân còn rất phức tạp. Việc huy động sức dân đóng góp vào các hoạt động xã hội còn nhiều mặt hạn chế.

- Đời sống của một bộ phận nhân dân đặc biệt là nhân dân lao động nghèo, gia đình chính sách, cán bộ hưu trí, mất sức và những người sống chủ yếu bằng tiền lương và trợ cấp xã hội hết sức khó khăn. Nhà ở, việc làm còn tồn động lớn.

- Sự nghiệp giáo dục, y tế thực hiện chưa đạt một số chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội V đề ra. Đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ở những ấp hẻo lánh còn thấp.

- Tình hình buôn lậu, cờ bạc, mê tín dị đoàn còn nhiều.

- Hệ thống chính trị tuy được kiện toàn, sắp xếp lại một bước nhưng vẫn còn cồng kềnh, có mặt còn yếu. Đáng lưu ý là một bộ phận đảng viên giảm sút ý chí, nhiệt tình cách mạng, thiếu đầu tàu gương mẫu, ý thức tổ chức kỷ luật kém…Không được quần chúng tín nhiệm. Việc đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của các tổ chức trong hệ thống chính trị cũng là vấn đề Huỵên gặp khó khăn, lúng túng.

Cụ thể là:

- Diện tích, năng suất, sản lượng các loại cây trồng, vật nuôi hàng năm đều tăng. Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 6,5%/năm. Các cây chủ yếu như lúa, đậu phọng tăng khá. Trên 1.500ha cao su đã trồng đang phát triển tốt và có khả năng tăng thêm diện tích. Cây dậu phọng, mía, thuốc lá bước đầu gắn với các nhà máy chế biến của Thành Phố và Trung ương thông qua hình thức liên kết, nên sản xuất ổn định và phát triển. Về chăn nuôi, tổng đàn  gia súc, gia cầm ổn định và có bước phát triển chăn nuôi cá, vịt đàn phát triển ở những vùng có kênh Đông.

- Giải quyết hàng trăm vụ tranh chấp ruộng đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hơn 3000 hộ nông dân, góp phần tạo điều kiện để nông dân yên tâm sản xuất.

- Tuy nhiên, những kết quả đạt được còn khiêm tốn so với tiềm năng nông nghiệp của Huyện. Bình quân lương thực đầu người tuy có tăng nhưng còn thấp và chưa ổn định. Một số chỉ tiêu chủ yếu chưa đạt kế hoạch đề ra.

- Sản xuất công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp yếu. Giá trị tổng sản lượng giảm sút, năm 1989 giảm 8,8%, năm 1990 giảm 15% trong đó công nghiệp quốc doanh giảm từ 13,5%-59%. Công nghiệp cơ khí và nông nghiệp chế biến chưa gắn và chưa tạo được những sản phẩm có tác dụng thúc đẩy nông nghiệp phát triển.

- Riêng một số nghề truyền thống như sơ mài, mây, tre lá…được phục hồi và phát triển. Công nghiệp xay xát, chế biến nhỏ của tư nhân phát triển mạnh.

- Xây dựng cơ sở hạ tầng, công trình phú lợi xả hội như đường, chợ, trường học, trạm xá…đạt được nhiều kết quả. Đến năm 1990, hệ thống thủy lợi kênh Đông đã mở rộng thêm một só vùng mới như Tam Tân, An Phú, Phú Mỹ Hưng…nâng diện tích được tưới bằng nước kênh Đông từ 8000 ha (1988) lên 10.600ha (1990). Đã kéo thêm trên 100km điện trung thế và hạ thế, hoàn thành điện khí hóa thí điểm 01 xã và 5 ấp. Mạng lưới điện đã khép kín trong toàn Huyện, tổng công suất điện tăng gấp hai lần năm    1987-1988.

- Trong lĩnh vực thương nghiệp, hoạt động thị trường rất sôi nổi, nhộn nhịp,lưu thông hàng hóa thuận tiện dễ dàng hơn, mặt hàng phong phú và đa dạng, thương nghiệp tư nhân phát triển mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Mặt yếu là sự quản lý của Nhà nước còn nhiều sơ hở để tư thương trốn thuế, lậu thuế, vai trò của thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán giảm sút, quy mô hoạt động thu hẹp lại. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu bộc lộ nhiều yếu kém, trình độ và kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ còn hạn chế, chưa tạo được thị trường ổn định cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực nên sản xuất kinh doanh thua lỗ nặng mất khả năng chi trả.

- Ngân sách Huyện từ chỗ mất cân đối lớn kéo dài trong nhiều năm thì đến đầu năm 1991 đã cân đối được.

- Kinh tế quốc doanh còn khó khăn lớn là vấn đề giải quyết những thua lỗ, tổn đọng cũ,một vài đơn vị còn lúng túng trong cách làm ăn mới.

- Kinh tế tập thể gặp rất nhiều khó khăn vì hầu hết các hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã mua bán, tín dụng làm không có hiệu quả.

- Văn hóa xã hội đạt được một số kết quả có ý nghĩa. Trên cơ sở phát triển sản xuất và thực hiện chính sách xã hội, đời sống của khá nhiều nhân dân được tốt hơn. Nhà ở, phương tiện đi lại, tiện nghi sinh hoạt đều được cải thiện.

- Bên cành thành tựu, vẫn còn khoảng 20% hộ nông dân đời sống thường xuyên túng thiếu, nhà ở đơn sơ phải tiếp tục giải quyết. Khó khăn gay gắt và mức sống giảm sút, nhiều nhất là những người mà nguồn thu nhập chính dựa vào tiền lương và trợ cấp xã hội.

- Đối với lĩnh vực giáo dục, có tiến bộ trong xây dựng cơ sở vật chất, trường lớp ổn định đội ngũ giáo viên. Chất lượng từng bước có khá hơn. Nhưng điều đáng lo ngại là các cháu đang độ tuổi ra lớp mẫu giáo đạt tỷ lệ thấp (50%), số học sinh bỏ học tăng, công tác xóa mù chữ kết quả còn thấp, chất lượng giáo dục đạo đức học sinh còn yếu, cơ sở vật chất tuy có tăng thêm nhưng trang thiết bị, dụng cụ dạy học, sách giáo khoa và nghiệp vụ cho giáo viên còn thiếu. Một số bộ môn, nhất là ngoại ngũ thiếu giáo viên nghiêm trọng. Đời sống giáo viên tuy có  được cải thiện nhưng nói chung vẫn còn nhiều khóa khăn.

- Trên lĩnh vực y tế, có nhiều chuyển biến tích cực trong việc phát triển mạng lưới y tế cơ sở, y tế cộng đồng. Chất lượng điều trị bệnh từ Huỵên đến cơ sở tốt hơn. Nhưng nhìn chung ở trẻ em, việc chăm sóc các đối tượng chính sách, những người nghèo neo đơn kết quả còn hạn chế.

- Hoạt động văn hóa thông  tin, thể dục thể thao có nhiều cố gắng. Nhìn chung đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân có tốt hơn, nhưng thường chỉ tập trung ở thị trấn, nơi dân cư đông đúc.

- An ninh quốc phòng tốt, an ninh chính trị ổn định. Hoạt động của các ngành trong khối nội chính có tiến bộ nhưng công tác phòng ngừa tội phạm còn yếu. Tình hình trật tự xã hội và các tệ nạn như mê tín dị đoan, cơ bạc, bia ôm có xu hướng gia tăng.

- Những khuyết nhược điểm chủ yếu của công tác quân sự là số lượng và chất lượng huấn luyện quân dự bị, dân quân tự vệ chưa cao. Phương tiện vật chất kỹ thuật còn nhiều hạn chế.

- Hoạt động của chính quyền và đoàn thể có hiệu quả hơn trước. Tuy nhiên chất lượng chưa cao.

- Việc thực hiện Nghị quyết 11 của Thành ủy về củng cố tổ chức Đảng đạt được những kết quả quan trọng. Tổ chức cơ sở Đảng, trình độ nhận thức và năng lực công tác của đảng viên ở một số cơ sở đảng được nâng lên.

VII.- ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ CỦ CHI LẦN THỨ VI (4/1991) QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI TRONG NHỮNG NĂM ĐỔI MỚI (1991-1995).

- Vào những năm đầu thạô kỷ 90 tình hình quốc tế có những biến động hết sức phức tạp. Sự sụp đổ của Liên Xô và một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã làm cho so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng trên thế giới bị đảo lộn. Mỹ đóng vai trò chi phối thế giới bằng sức mạnh kinh tế và quân sự. Bối cảnh quốc tế những năm này đặt ra nguy cơ mất còn  đối với Nhà nước và vai trò lãnh đạo của Đảng ta.

- Ở trong nước, cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội vẫn chưa được khắc phục. Lạm phát đến cuối năm 1991 là 67,9%, nạn chảy máu vàng và đôla qua biên giới chưa được ngăn chặn. Đời sống của một bộ phận khá đông nhân dân vẫn còn nhiêu khó khăn. Tình trạng mất trật tự- an ninh xã hội diễn ra có lúc, có nơi rất nghiêm trọng. Các thế lực phản động tiếp tục lợi dụng những khó khăn của ta nhằm phá hoại công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo. Đế quốc Mỹ tiếp tục duy trì chính sách thù địch và cấm vận kinh tế đối với nước ta.

- Những diễn biến xấu của tình hình chính trị thế giới và thực trạng kinh tế- xã hội của đất nước, đòi hòi Đảng và nhân dân ta phải kiên định lập trường độc lập dân tộc và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới để nhanh chống đưa đất nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội.

- Thực hiện Chỉ thị 59 và Chỉ thị 65-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Thông tư: 86-TT/TU của Thường trực Thành ủy về hướng dẫn mtổ chức Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII. Sau một thời gian chuẩn bị được sự đồng ý của Ban thường vụ Thành ủy, từ ngày 11 đến 12/11/1991, Đảng bộ Huyện Củ Chi đã tổ chức Đại hội Đại biểu Đảng bộ lần thứ VI (vòng II) tại Hội trường Nhà văn hóa Huyện. Trước đó vào hai ngày 5 và 6/4/1991 Đảng bộ đã tiến hành Đại hội Đảng bộ (vòng I) để thảo luận và thông qua báo cáo tổng hợp ý kiến của các Đảng bộ đóng góp cho các dự thảo văn kiện của Ban chấp hành Trung ương (khóa VI) trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII và bầu đoàn Đại biểu tham dự Đại hội Đảng bộ Thành Phố lần thứ V.

- Tham dự Đại hội có 250 đại biểu chính thức đại diện cho gần 4.000 đảng viên. Đại hội được vinh dự đón tiếp đồng chí Võ Trần Chí- Ủy viên Bộ chính trị- Bí thư Thành ủy Thành Phố Hồ Chí Minh, đồng chí Mai Chí Thọ- Ủy bộ chính trị- Bộ trưởng Bộ nội vụ, đồng chí Võ Văn Cương- Ủy viên Ban thường vụ Thành ủy, các đồng chí cách mạng lão thành, đại iện của các cơ sở, ban ngành Thành Phố, các cơ quan thông tấn báo chí, đài truyền hình, đài phát thanh và các Quận, Huyện ban lân cận tham dự.

- Đồng chí Đoàn Văn Khuy- Bí thư Huyện ủy thay mặt đoàn chủ tịch đọc báo cáo tổng kết ý kiến thảo luận và nêu lên những vấn đề cần tiếp tục thảo luận ở Đại hội.

- Đồng chí Võ Trần Chí phát biểu chỉ đạo với Đại hội.

- Đồng chí Mai Chí Thọ phát biểu thêm một số vấn đề với Đại hội.

- Sau phần kiểm điểm kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện nhiệm kỳ V. Báo cáo chính trị đã nêu ra phương hướng, nhiệm vụ của Đảng toàn quốc lần thứ VII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành Phố lần thứ V, căn cứ đặc điểm của Huyện. Đại hội đã xác định mục tiêu tổng quát của Đảng bộ trong nhiệm kỳ VI là:

- Tiếp tục phát huy những tích cực của các thành phần kinh tế, tập trung đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp- tiểu thủ công nghiệp- công nghiệp- thương nghiệp và dịch vụ nhằm khai thác cao nhất mọi tiềm năng của Huyện tạo một bước phát triển mới về kinh tế xã hội làm tiền đề cho những năm tiếp theo.

- Tiếp tục quan tâm chăm lo gia đình chính sách, phấn đấu thu hẹp tỷ lệ người nghèo, tạo thêm nhiều nhà ở, việc làm cho người lao động, giảm nhịp độ tăng dân số, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa…

- Nâng cao cảnh giác, cách mạng, bảo đảm quốc phòng, an ninh làm chuyển biến tình hình trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chế độ XHCN và các thành quả cách mạng.

- Trên cơ sở đổi mới chính trị, tiếp tục phát huy dân chủ XHCN, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Đảng, chính quyển và các đoàn thể quần chúng, đổi mới tổ chức và cán bộ.

- Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ khóa VI (nhiệm kỳ 1991-1995) gồm 35 đồng chí. Trong phiên họp thứ nhất Ban chấp hành đã bầu ra Ban thường vụ Huyện ủy gồm 11 đồng chí. Đồng chí Đoàn Văn Khuy được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy, đồng chí Lê Hữu Đức được bầu giữ chức Phó Bí thư Thường trực và đồng chí Nguyễn Minh Dũng giữ chức vụ Phó Bí Thư.

- Sau 3 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc và có trách nhiệm, Đại  hội Đảng bộ Huyện lần thứ VI đã thông qua Nghị quyết về các chỉ tiêu phấn đấu chủ yếu sau đây:

1/- Chỉ tiêu về phát triển kinh tế- xã hội thời kỳ 1991-1995:

- Sản xuất nông nghiệp: tiếp tục đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, và nông nghiệp là nhiệm vụ hàng đầu. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của nông nghiệp đạt 7,5% trong đó trồng trọt tăng trường bình quân hàng năm từ 8-9%, chăn nuôi là 3,9%.

- Đến năm 1995 giá trị tổng sản lượng nông nghiệp chiếm tỷ trọng từ 80-83% trong toàn nền kinh tế của Huyện, tổng diện tích gieo trồng đạt 56.000ha, giá trị tổng sản lượng chiếm tỷ trọng 78,4% trong ngành nông nghiệp. Phấn đấu mở rộng thêm diện tích cao su ở những vùng có điều kiện.

- Tiểu thủ công nghiệp- công nghiệp:trong 5 năm (1991-1995) phại tập trung phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống có tay nghề cao, nguyên liệu tại chỗ, chú trọng mở rộng các hình thức gia công xuất khẩu, thu hút nhiều lao động. Hướng phát triển các ngành công nghiệp trong những năm này là: công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, công nghiệp khai thác chế biến than bùn, cao lanh, thủ công mỹ nghệ và cơ khí sửa chữa. Phấn đấu tốc độ phát triển tiểu thủ công nghiệp- công nghiệp bình quân hàng năm từ 5-7%.

-Xây dựng cơ sở hạ tầng: tiếp tục xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng là yếu tố quan trọng hàng đầu để ổn định, phát triển kinh tế- xã hội. Trọng tâm đầu tư 5 năm tới là thủy lợi, điện, giao thông, cơ sở vật chất ngành giáo dục…

- Về thủy lơi: tiếp tục hoàn chỉnh và mở rộng công trình kinh Đông trong đó là kinh Bến Mương- Láng The phục vụ tưới cho 14.000ha vùng gò, triền gò các xã phía Bắc xây dựng bờ bao ven sông Sai Gòn, tưới tiêu cho 7.000ha vùng bưng thấp các xã phía nam, khai thác nước ngầm chủ yếu bằng giếng thủ công tưới cho 4.500ha khu vực ngoài hệ thống kênh Đông.

- Về điện:  kéo mới 110km đường dây trung thế và hạ thế, phấn đấu đến năm 1995 cơ bản điện khí hóa toàn Huyện.

- Về giao thông: nâng cấp sửa chữa các tuyến đường, làm mới đường nông thôn trong xóm ấp phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp và đi lại của nhân dân. Đề nghị Thành Phố nâng cấp tráng nhựa tỉnh lộ 15, tỉnh lộ 7,8,9,2, bê tông hóa cầu Bến Nẩy, Rạch Sơn, Cầu Lớn.

- Công trình công cộng: tiếp tục tu bảo dưỡng nâng cấp 150 phòng học, xây mới 90 phòng để xóa ca 3, xây mới trụ sở Ủy ban nhân dân các xã còn lại.

- Về thương nghiệp dịch vụ: Tiếp tục phát triển các ngành thương nghiệp phục vụ sản xuất, đời sống nhân dân, chống khuynh hướng phát triển tự phát, thương nghiệp phi sản xuất. Trên cơ sở đó sắp xếp lại thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã cho phù hợp với nền kinh tế thị trường. Hướng kinh doanh trong những năm tới là tập trung vào các hàng nông sản phục vụ xuất khẩu, các mặt hàng phục vụ nhu cầu đời sống của nhân dân, cố gắng nắm một số mặt hàng thiết yếu để góp phần điều tiết thị trường giá cả.

- Về đời sống và việc làm: Phấn đấu nâng bình quân lương thực đầu người năm 1991: 419kg, năm 1995: 500kg. Đến năm 1995 giải quyết cơ bản 2000 nhà ở cho gia đình thương binh liệt sĩ, trước mắt trong năm 1991-1992 giải quyết xong 326 nhà  tình nghĩa cho những gia đình khó khăn nhất. Tiếp tục giải quyết dứt điểm công tác chính sách trong chiến tranh còn tồn đọng.

- Biện pháp chủ yếu để giải quyết việc làm là phát triển các ngành nghề, đào tạo nghề cho người lao động hoặc gởi đi hợp tác lao động ở nước ngoài.

- Về giáo dục: phấn đấu đến năm 1995 hoàn thành xóa mù chũ và phổ cập cấp I, xóa các lớp học ca 3, huy động các em trong độ tuổi đến năm 1995 đạt 90-95%.

- Về y tế:  phấn đấu đến năm 1995 hạ tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên còn 1,5%, tiêm chủng mở rộng đạt từ 80-85%.

- Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Thành ủy, sau 5 năm (1991-1995) tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành Phố lần thứ V và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ VI. Đảng bộ và nhân dân Củ Chi đã giành được những thắng lợi quan trọng trên các mặt sau:

1/- Trên lĩnh vực kinh tế:

- Đã xác định chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng đắn, đạt được một số kết quả.Kinh tế của Huyện 5 năm qua đi vào ổn định, có bước tăng trưởng khá, làm tiền đề quan trọng cho bước chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, một số mục tiêu chủ yếu đã đạt và vượt mức so với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ VI đề ra.

- Tổng sản phẩm nội địa (GDP) tăng liên tục và tương đối đều đặn, GDP bình quân đầu người từ 221 USD (1991) tăng lên 325 USD (1995).

a) Khu vực nông nghiệp được xác định là mặt trận hàng đầu, Huyện đã tập trung đầu tư các công trình giao thông, thủy lợi, điện…Công tác khuyến nông và cho nông dân vay phát triển kinh tế hộ, 5 năm qua sản xuất nông nghiệp Huyện phát triển khá, giá trị tổng sản lượng năm 1995 đạt 117,8 tỷ đồng, gồm trồng trọt 83 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 70,46%, chăn nuôi 34,8 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 29,54%, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 5,4%. Trong đó trồng trọt tăng 4,9% đạt 61% Nghị quyết, chăn nuôi tăng 6,6% đạt 169% chỉ tiêu Nghị quyết.

b) Sản xuất công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp: nhìn chung công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp phát triển đúng hướng, nhất là bước đầu Huyện đã quy hoạch 3 khu công nghiệp tập trung (khu Tây Bắc thị trấn Củ Chi 200ha, Tân Quy 150-200ha, Tân Phú Trung 300-500ha. Có nhiều xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư trên địa bàn Huyện, tạo ra  sức phát triển mới cho ngành và các hoạt động kinh tế khác của Huyện. Giá trị tổng sản lượng toàn ngành đến năm 1995 là 13,222 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 15,66% đạt 223%.

- Mặt tồn tại là công nghiệp Huyện có phát triển nhưng chưa ổn định, chưa đủ sức thay đổi bộ mặt nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế quốc doanh sau khi củng cố và sắp xếp lại vẫn chưa đủ mạnh, kinh tế ngoài quốc doanh có chuyển biến nhưng còn chậm. Các cơ sở làm hàng gia công, sản xuất thủ công trang thiết bị cũ kỷ, lạc hậu, sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh thị trường.

- Đến năm 1995, Huyện có 634 cơ sở sản xuất công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp thu hút trên 4000 lao động.  Có 11 công ty vồn đầu tư nước ngoài đã được Ủy ban Nhà nước về  hợp tác và đầu tư cấp phép hoạt động trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, đến năm 1995 mới chỉ có hai doanh nghiệp hoạt động thu hút trên 500 lao động, các đơn vị còn lại đang ở trong giai đoạn xây dựng.

2/- Xây dựng cơ bản: tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản 5 năm (1991-1995) là 146 tỷ 919 (trong đó nguồn vốn huy động nhân dân và các nguồn khác 8 tỷ 092 triệu), đạt mức đầu tư về cơ sở hạ tầng cao nhất từ trước đến nay. Chú trọng đầu tư nhằm phục vụ cho sản xuất và nhu cầu văn hóa tinh thần của nhân dân với cơ cấu đầu tư như sau: nông nghiệp, thủy lợi chiếm 6,8%, văn hóa xã hội 19,5%, giao thông 58,3%, điện nông thôn 12,8%, công trình công cộng 1,5%, công nghiệp 1,1%.

- Đặc biệt kênh Đông ở Củ Chi có 11km kinh chính, 100km kinh cấp 1 (từ N27 đến N46+2), 500km kinh cấp 2,3,4 và khoảng 2000 cầu cống các loại có khả năng tưới tự chảy cho 14017ha (chiếm 42% diện tích đất).

- Mạng lưới đường bộ tương đối đều khắp, nhiều tuyến đường được nâng cấp sửa chữa. Tổng  chiều dài đường bộ là 403km, gồm đường nhựa và cấp phối sỏi đỏ với 55 tuyến. Đồng thời, Huyện có 1.024m cầu với 40 chiếc hầu hết là bêtông cốt thép.

- Đến 1994, 100% số xã có điện, có trạm biến thế điện trên địa bàn xã, 78,62% số hộ dùng điện (39.761/50.574 hộ).

- Việc phân phối thu nhập quốc dân giữa tích lũy và tiêu dùng chuyển dịch theo hướng tích cực. Vốn đầu tư tăng nhanh, cả trong khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn thu ngân sách Huyện, từng năm đều tăng đáng kể, do đó nên phần kinh phí của Huyện đầu tư cho cơ sở hạ tầng nhiều hơn, góp phần làm chuyển đổi nhanh hơn bộ mặt nông thôn.

- Từ đó bộ mặt Huyện có nhiều thay đổi, đời sống của nhân dân trong Huyện được nâng cao và cải thiện, kinh tế có điều kiện phát triển tốt hơn nhiều so 5 năm trước.

- Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trên địa bàn Huyện chuyển đổi nhanh. Thông qua phát huy các thành phần kinh tế đã từng bước khơi dậy năng lực sản xuất trên địa bàn Huyện. Tính đến năm 1995 Liên hiệp hợp tác xã mua bán Huỵên, doanh số mua vào của toàn ngành đạt 187,36 tỷ đồng, nhịp độ phát triển bình quân hàng năm (1991-1995) là 187,36% (chưa loại trừ yếu tố trượt giá). Doanh số bán ra  184,650 ỷ đồng, nhịp độ phát triển bình quân 183,36%. Tổng giá trị xuất và nhập khẩu 4.500.000 USD.

- Hoạt động của thương nghiệp tư nhân phát triển năng động, hàng hóa đa dạng, phong phú về số lượng và chủng loại, phát triển sôi nổi, qua đăng ký trên địa bàn Huyện có trên 3000 hộ kinh doanh thương mại dịch vụ.

- Khu vực kinh tế quốc doanh được sắp xếp củng cố một bước về tổ chức, giảm về số lượng, đang phấn đấu nắm giữ các vị trí then chốt.

- Nhìn chung khu vực dịch vụ tăng khá, lưu thông hàng hóa mở rộng, hoạt động tài chính ổn định, lĩnh vực ngoại thương được đẩy mạnh, du lịch bước đầu phát triển.

- Các hoạt động khác như thu chi ngân sách, quản lý thị trường, thuế đều đạt vượt và bảo đảm được chỉ tiêu do Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ VI đề ra.

3/- Trên lĩnh vực văn hóa- xã hội:

- Chăm lo đời sống: diện tích đất canh tác được khai hoang phục vụ hóa đưa vào sản xuất nông nghiệp và xây dựng cơ bản mỗi năm một tăng. Năm 1976, đất sản xuất nông nghiệp được gần 31.000ha, năm 1980 được gần 40.000ha, năm 1994 được 48.720ha. Đến nay, tính chung trong toàn Huyện đã có gần 24.00 căn nhà đúc xây, chiếm tỷ lệ 50% tổng số nhà của dân. Việc chăm lo đời sống cho nhân dân lao động nghèo đã được quan tâm thực hiện bằng nhiều chính sách và biện pháp thiết thực. Trong đó trọng tâm là chương trình xóa đói giảm nghèo đã được thực hiện có kết quả, bằng biện pháp trợ vốn cho các hộ nghèo phát triển sản xuất, giúp đỡ phương án làm ăn, đến 30/4/1995 Huyện đã xóa được hộ đói, tổng số hộ trong danh sách trợ vốn 4.965 hộ với số tiền 4 tỷ đồng, có 18%  số hộ trong danh sách vươn lên khác, 54% số hộ đủ ăn. Huyện đã xét duyệt đề nghị Thành Phố cho vay 60 dự án giải quyết việc làm từ nguồn vốn quỹ quốc gia với số tiền vay 16,2 tỷ đồng cho 6.351 hộ, giải quyết việc làm 8.000 lao động, tổ chức 124 hộ đi lập nghiệp ở nông trường quốc doanh Tam Tân, Phạm Văn Cội, tổ chức dạy nghề và  đưa đi học nghề cho 221 lao động là con em gia đình chính sách. Ngoài ra Huyện đã xét giải quyết trợ cấp thường xuyên cho gần 300 hộ nghèo cô đơn, tổ chức chăm sóc và giúp đỡ 440 trẻ em mồ côi khuyết tật, tổ chức phát triển sản xuất tạo việc làm ổn định cho 15.885 lao động của Huyện, bình quân hàng năm tạo việc làm 3.177 lao động.

-  Đến tháng 10/1994 nghĩa trang Huyện đã qui tập được 7.375 mộ, trong đó có 3.375 mộ liệt sĩ chưa rõ họ tên. Đây là nơi an nghỉ cuối cùng của hàng ngàn người con ưu tú từ khắp mọi miền đất nước đã cùng con em Củ Chi dũng cảm chiến đấu và hy sinh.

- Công tác giáo dục- đào tạo luôn được chăm lo. Huỵên đã đầu tư khá lớn xây dựng sửa chữa trường lớp, trang thiết bị dạy học và vận động mở rộng “xã hội hóa” công tác giáo dục. Trong 5 năm từ 1990 đến 1995 xây dựng mới 135 phòng học và sữa chữa lớn 328 phòng, các dụng cụ, phương tiện dạy học được trang bị bổ sung hàng năm. Tuy nhiên cũng còn một số lớp của trường cấp 2 và mẫu giáo số lượng học sinh quá cao, chưa đáp ứng đủ trường lớp cần phải xây dựng thêm để đảm bảo môi trường sư phạm.

- Đội ngũ giáo viên ngày càng được ổn định và tiêu chuẩn hóa đa số người dân địa phương. Tuy nhiên tình trạng thiếu giáo viên vẫn chưa được khắc phục. Nhất là giáo viên cấp II các môn ngoại ngữ, kỹ thuật, nhạc, họa…

- Số lượng học sinh ở các ngành học, cấp,  học qua các năm đều tăng. Năm học 1975-1976 số học sinh cấp I là 24.814 em, học sinh cấp II là 1.888 em thì năm học 1994-1995 học sinh cấp I có 33.498 em, học sinh cấp II là 12.884 em, chất lượng học tập, hiệu suất đào tạo ở các cấp học cũng từng bước được nâng lên. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp bậc tiểu học 1994-1995 là 95,1%, trung học cơ sở là 93,5%, trung học phổ thông là 84,5%. Có 20/21 xã, thị trấn đạt tiêu chuẩn xóa mù chữa và 18/21 xã, thị trấn đạt tiêu chuẩn phổ cập tiểu học theo quy định. Công tác giáo dục kỹ thuật, hướng nghiệp và dạy nghề đã được củng cố và mở rộng quy mô vừa giảng dạy thực hành kỹ thuật vừa  đào tạo nghề cho thanh thiếu niên và học sinh.

- Các hoạt động chăm sóc sức khỏe nhân dân phát triển mạnh và ngày càng tốt hơn. Huyện đã đầu tư và tranh thủ sự giúp đỡ từ nhiều nguồn để trang bị cho ngành y tế,  những phương tiện tương đối tốt so với nhiều Quận, Huyện khác trong Thành Phố. Mạng lưới y tế của Huyện vào thời điểm cuối năm 1994 gồm:

Tuyến Huyện:

- Trung tâm y tế Củ Chi (có 100 giường bệnh).

- Bệnh viện An Nhơn Tây (có 50 giường bệnh).

- Năm 1995, Huyện đã được sự hỗ trợ của Thành Phố chuyển bệnh việc An Nhơn Tây thành bệnh viện miễn phí với quy mô 80 giường bệnh.

Tuyến khu vực:

- Trung tâm kế hoạch hóa gia đình.

- Phòng khám khu vực Tân Quy.

- Phòng khám khu vực Phước Thạnh.

Tuyến xã:

- 21 trạm y tế xã, thị trấn (có 112 giường bệnh và giường            lưu sanh).

- 102 chốt cấp cứu tại các ấp, đạt 70% số ấp trong Huyện   (toàn Huyện có 156 ấp).

- Đội ngũ cán bộ, công nhân viên ngành y tế của Huyện là 433 người. Văn hóa thông tin, thể dục thể thao đã có những chuyển biến tích cực hơn nhiệm kỳ V.

- Du kinh tế Huyện còn nhiều khó khăn, mức đầu tư của trên còn hạn chế, nhưng trên mặt trận tư tưởng- văn hóa Huyện Củ Chi đã biết vận dụng nhiều phương thức hoạt động có hiệu quả, biết tập trung đầu tư xây dựng một số công trình, thiết chế văn hóa- thông tin then chốt như đài truyền thanh, nhà truyền thống, nhà văn hóa- thể dục thể thao, nghĩa trang liệt sĩ, các khu di tích lịch sử…Mức hưởng thụ của nhân dân về các loại hình thông tin, văn hóa nghệ thuật tăng tiến nhiều lần.

- Phong trào thể dục thể thao đã lớn lên không ngừng cả về chất và lượng.

- Tóm lại, những kết quả to lớn trong việc giải quyết các vấn đề về văn hóa- xã hội của Huyện là đã huy động các nguồn lực của xã hội cùng tham gia, thông qua phong trào quần chúng rộng rãi, góp phần thực hiện vượt mức các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra trong đó nhà tình nghĩa đạt 2.607  căn. So với Nghị quyết 2.100 căn, xóa được hộ đói, giảm phần lớn hộ nghèo, đời sống văn hóa tinh thần nhân dân được cải thiện một bước.

- Tuy nhiên lĩnh vực văn hóa xã hội vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bức xúc. Trình độ dân trí còn thấp, một bộ phận lao động chưa có việc làm ổn định. Mặt khác, trong lãnh đạo và quản lý có lúc còn xem nhẹ trận địa văn hóa, chưa tập trung đứng mức.

4/- Trên lĩnh vực an ninh, quốc phòng và nội chính.

- Năm năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân, không ngừng đề cao cảnh giác, thực hiện nhiệm vụ, nhằm đảm bảo ổn định về chính trị gắn với tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, tích cực phòng ngừa và tấn công các loại tội phạm, xây dựng ý thức cảnh giác trong Đảng viên và nhân dân, củng cố và tăng cường phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, giữ gìn bí mật quốc gia bảo vệ tốt thành quả cách mạng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Huỵên trong nhiệm kỳ (1991-1995) luôn được ổn định. Lực lượng công an và công tác quân sự địa phương được củng cố. Tuy nhiên, trên lĩnh vực an ninh vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên ở các ngành, các cấp tinh thần cảnh giác chưa cao. Mặt hạn chế của công tác quân sự địa phương là sự kết hợp giữa kinh tế và an ninh quốc phòng chưa hài hòa.

- Các hoạt động của ngành nội chính như: Viện kiểm sát, Tòa án, Phòng tư pháp, Thanh tra được kiện toàn về tổ chức và nghiệp vụ chuyên môn. Các ngành bảo vệ pháp luật đã đạt nhiều tiến bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Huyện, góp phần ổn định an ninh chính trị và trật tự xã hội. Mặt hạn chế là công tác thi hành án còn chậm, tình hình phạm pháp chưa giảm, các loại tội phạm và trọng án về hình sự có chiều hướng gia tăng.

5/- Trong công tác xây dựng hệ thống chính trị:

- Về công tác xây dựng Đảng: trọng tâm công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ là tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết 11 của Thành ủy và Nghị quyết Trung ương 3 về đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Qua phân tích chất lượng cơ sở Đảng năm 1994, toàn Huyện có 28 cơ sở Đảng vững mạnh (trong đó có 7 xã, thị trấn), chiếm tỷ lệ 40,27% và số yếu kém còn 12 đơn vị (có 5 xã) chiếm tỷ lệ 17,39%. Tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên đã có sự chuyển biến tốt so với những năm đầu nhiệm kỳ, lòng tin được củng cố, nâng lên, đại đa số đảng viên nhạy bén với thời cuộc nắm bắt được tình hình, kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, gương mẫu đi đầu trong các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng. Nhiều đảng viên là cán bộ hưu trí, tuy  tuổi cao sức yếu, nhưng vẫn tận tụy với sự nghiệp của Đảng, gắn bó với ấp, khu phố và tổ nhân dân, tích cực tham gia giải quyết các vấn đề bức xúc trong đời sống  của nhân dân. Nhiều đảng viên trẻ đã có ý thức trong  học tập rèn luyện, nâng cao trình độ để phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới. Đến cuối năm 1995 Đảng bộ Huyện Củ Chi có 3.516 đảng viên (1.40% dân số; tuổi đời bình quân của đảng viên là 45,2), sinh hoạt trong 68 tổ chức cơ sở Đảng. Trong nhiệm kỳ VI, Đảng bộ phát triển được 367 đảng viên mới. Xử lý kỷ luật 117 đảng viên, trong đó khai trừ 51 chiếm 18,6%, xóa tên 151 đảng viên. Tuy tình hình vi phạm kỷ luật của đảng viên có giảm, song tính chất lại phức tạp, một số vụ việc vi phạm mang tính tập thể, đa số trường hợp kỷ luật là cấp ủy viên cơ sở, cán bộ có chức có quyền… số đảng viên xóa tên hầu hết là đảng viên thường không còn tha thiết với Đảng bỏ sinh hoạt Đảng trong thời gian dài.

- Mặt tồn tại của công tác xây dựng Đảng là công tác thông tin chưa đầy đủ và kịp thời để lý giải những vướng mắc của đảngviên. Việc giáo dục, ngăn chặn đảngviên sai phạm chưa kịp thời. Công tác đấu tranh tự phê bình và phê bình trong Đảng chưa nghiêm, phần nhiều các trường hợp xử lý vi phạm kỷ luật do bị tố cáo thanh tra, kiểm tra làm rõ.

- Công tác xây dựng chính quyền: Thực hiện sắp xếp kiện toàn tinh gọn bộ máy chính quyền theo Quyết định 442/UBND-TP và Quyết định 1852/UBND-TP của Ủy ban nhân dân Thành Phố. Thông qua bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, nhân sự Ủy ban nhân dân Huyện, xã, thị trấn được củng cố. Hệ thống chính quyền các cấp đã đóng góp tích cực vào việc thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Tuy nhiên, do cải cách hành chính chậm không đáp ứng kịp thời và đầy đủ trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế mới, chưa có sự phân công, phân cấp rõ ràng giữa Huyện, xã và các ngành trong quản lý. Đội ngũ cán bộ, viên chức chưa được quy hoạch, đào tạo một cách căn cơ, việc bố trí và sử dụng chưa khoa học và hiệu quả từ đó hoạt động của chính quyền Huyện, xã chưa theo kịp yêu cầu quản lý hành chính kinh tế- xã hội.

- Hoạt động của các đoàn thể và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và Mặt trận Tổ quốc đã đổi mới phương thức hoạt động, tổ chức nhiều cuộc vận động lớn và nhiều phong trào được đông đảo nhân dân tự giác tham gia.

- Nhìn chung 5 năm (1991-1995) thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện Củ Chi lần thứ VI, chúng ta thấy cùng với sự phát triển chung của Thành Phố, Huyện Củ Chi đã có những chuyển biến tích cực. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Củ Chi đã tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, nổ lực phấn đấu khắc phục khó khăn, tích cực tham gia các phong trào chung của Huyện với tâm trạng, tư tưởng an tâm phấn khởi hơn, phát huy đươc dân chủ xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực đời sống xã hội, gópphần giữ vững an ninh chính trị địa phương. Mặt trận và các đoàn thể đã có bước chuyển biến tích cực về nội dung hoạt động và có những hình thức tập họp mới, đáp ứng được nhu cầu sở thích, nghề nghiệp, lợi ích của các tầng lớp nhân dân. Nhiều phong trào  thực  sự đi vào lòng dân và mang tính chính trị xã hội rộng lớn như “xóa đói giảm nghèo” giải quyết việc làm, xây dựng nếp sống văn minh gia đình văn hóa mới, công tác đền ơn đáp nghĩa, phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc…

- Giai cấp nông dân chiếm đại bộ phận dân cư Củ Chi, phấn khởi trước chính sách đổi mới của Đảng, trong nông nghiệp gắn bó với ruộng đất, hăng hái  sản xuất phát triển kinh tế gia đình, tạo ra sản phẩm hàng hóa, tay nghề được nâng lên. Đội ngũ công nhân viên chức Nhà nước, thu nhập đời sống có phần ổn định hơn trước và yên tâm công tác. Thanh niên, phụ nữ, Cựu chiến binh… tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, tích cực tham gia các hoạt động của địa phương.

- Những mặt yếu kém trong công tác vận động quần chúng là công tác xây dựng lực lượng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của phong trào, công tác phát triển đoàn viên, hội viên còn chậm, chất lượng chưa cao, nhiều cơ sở còn mang tính hình thức, nặng về chăm lo cho các lợi ích  đơn thuần chưa coi trọng công tác giáo dục, giác ngộ, xây dựng nền tảng chính trị trong dân.

- Tóm lại, 5 năm qua (1991-1995) về cơ bản, Huyện luôn giữ vững thế ổn định  chính trị, từng bước tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng không ngừng được cụ thể hóa và đi vào đời sống xã hội. Đảng bộ và nhân dân Củ Chi đã phát huy truyền thống cách mạng, nổ lực khắc phục khó khăn, vượt qua những thử thách, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, ổn định và cải thiện một bước đời sống của nhân dân, giải quyết được nhiều vấn đề xã hội có tính bức xúc. Nhu cầu  ăn, mặc, ở, học hành, đi lại trên địa bàn Huyện tiến bộ rõ so với nhiệm kỳ V. Nhiều công trình mới đặc biệt là đường giao thông, điện, trường học, bệnh viện, trạm xá, thủy lợi…làm thay đổi hẳn bộ mặt nông thôn. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đang phát triển sinh động, mọi người hăng hái sản xuất, kinh doanh làm giàu chính đáng. Các chương trình xóa đói giảm nghèo, xây nhà tình nghĩa…góp phần quan trọng làm giảm bớt khoảng cách giữa giàu-nghèo trong xã hội. Bộ mặt nông thôn Củ Chi đã và đang tiếp tục có những biến đổi sâu trên nhiều lĩnh vực, bước đầu có sự chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh về công nghiệp và dịch vụ. Cơ cấu nông thôn, cơ cấu nông nghiệp được cải biến và chuyển theo hướng cây, con có giá trị kinh tế cao. Sự chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang khu vực công nghiệp đã kích thích cơ giới hóa phát triển. Kinh tế vườn, chăn nuôi bò sữa được chú trọng, dần hình thành những khu dân cư đô thị hóa và các khu công nghiệp tập trung. Huyện đã cơ bản xóa  hộ đói và đời sống gia đình chính sách được cải thiện hơn trước. Nhà ở tốt hơn và đi vào hình thức mỹ quan, tỷ lệ nhà kiên cố bán kiên cố đạt khoảng 50%, trong đó tình hình nhà ở diện chính sách được giải quyết cơ bản, phương tiện thông tin liên lạc, đi lại, nghe nhìn tốt hơn. Từ đó đời sống xã hội toàn Huyện được cải thiện, khởi sắc hẳn lên, tạo thêm được lòng tin của nhân dân Củ Chi với Đảng, với chế độ.

- Mục tiêu và một số chỉ tiêu trọng tâm đặt ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ VI, có  bổ sung, điều chỉnh ở  Hội nghị giữa nhiệm kỳ như các chỉ tiêu về sản xuất công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp, sản xuất nông nghiệp, giải quyết lao động, thuế, nghĩa vụ quân sự phấn đấu đạt tốt, có chỉ tiêu vượt. Sau khi thực hiện Nghị quyết 11 của Thành ủy, Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết 8B/TW, sức chiến đấu của Đảng bộ từng bước nâng lên, an ninh chính trị, an ninh quốc phòng luôn giữ vững trong mọi tình huống. Hệ thống chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể đều có chuyển động về chất, công tác nội chính, hoạt động văn hóa xã hội  tốt hơn, góp phần quan trọng cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ trong cả nhiệm kỳ. Cuối năm 1994, xét quá trình xây dựng Huyện  20 năm gắn với quá trình chiến đấu 2 thời kỳ,một lần nữa Huyện được Nhà nước  phong tặng danh hiệu “Huyện anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân” (Ngày tuyên dương anh hùng là 20/10/1976 và 20/10/1994).

- Bên cạnh những thành tựu kể trên trong nhiệm kỳ VI cũng còn bộc lộ ngững tồn tại là: tốc độ phát triển kinh tế xã hội chưa cao, đời sống của nhân dân trong Huyện còn thấp so với nội thành. Huyện chưa khai thác tốt tiềm năng để tạo bước đột phá, kinh tế tăng trưởng nhưng chưa vững chắc, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội còn nhiều mặt lạc hậu, không theo kịp yêu cầu phát triển chung. Tình trạng tăng dân số cơ học ngày càng cao, mặt bằng dân trí còn thấp đời sống chung của nhân dân cũng còn nhiều, quản lý nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mới, những yếu kém trong hoạt động văn hóa, văn nghệ chậm được khắc phục, kỷ cương pháp luật không nghiêm, tệ tham nhũng, hối lộ cùng các tệ nạn xã hội khác ở nông thôn có tác động xấu đối với nhận thức tư tưởng và làm xoái mòn lòng tin trong nhân dân. Để Huyện tiếp tục phát triển đilên trong giai đoạn mới Đảng, chính quyền, đoàn thể, Mặt trận đều phải tiếp tục củng cố kiện toàn, đổi mới để bắt kịp tình hình nhiệm vụ mới.

IX.- ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ HUYỆN CỦ CHI LẦN THỨ VIII (2000-2005).

- Đại hội Đảng bộ Huyện Củ Chi lẩn thứ VIII họp từ ngày 27/9 đến 29/9/2000. Có 178 đại biểu.

- Trên cơ sở nhận định những thuận lợi và khó khăn thách thức trong đó thuận lợi cơ bản là:

- Đường lối đổi mới của Đảng được tiếp tục cụ thể hóa, cùng với sự quan tâm chi viện, hỗ trợ to lớn của Trung ương và Thành Phố.

- Cùng với sự phát triển chung của Thành Phố, Huyện Củ Chi đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng cả về xây dựng hệ thống chính trị, giữ gìn an ninh quốc phòng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phát triển nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ, văn hóa- thể thao. Đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, y tế có sự tiến bộ vượt bậc, cơ sở hạ tầng kỹ thuật được đầu tư phát triển đáng kể nhất là giao thông, điện khí hóa nông thôn, hệ thống công trình thủy lợi kênh Đông. Nhiều chương trình xã hội mang tính nhân văn sâu sắc và có sức lan tỏa rộng như phong trào về nguồn, thực hiện công tác đền ơn đáp nghĩa, xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương, chương trình “xóa đói giảm nghèo” đã giúp cho nhân dân Củ Chi vượt lên từ sự đói nghèo.

- Bên cạnh những thuận lợi, Củ Chi cũng gặp nhiều khó khăn thử thách do tác động bởi những khó khăn chung của đất nước và Thành Phố, nhất là mặt trái của cơ chế thị trường không chỉ ảnh hưởng đến quá trình xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của Huyện mà còn tác động về mặt tư tưởng, về đạo đức xã hội và nhiều lĩnh vực khác.

- Mặt bằng dân trí còn thấp, đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, hệ thống cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng kịp theo yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước chưa thực hiện đầy đủ chức trách của mình, từng lúc từng nơi vẫn còn thể hiện quan liêu, cửa quyền, gây phiền hà cho dân.

- Đại hội đã thông qua Nghị quyết nhiệm vụ xây dựng phát triển kinh tế- xã hội và củng cố quốc phòng an ninh trong 5 năm 2000-2005 như sau:

1/- Về kinh tế, tiếp tục giữ vững tốc độ tăng trưởng sản xuất nông nghiệp, tậptrung đẩy mạnh sản xuất công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp và thương mại dịch vụ. Trong giai đoạn 5 năm 2000-2005, phấn đấu đạt mức tăng trưởng kinh tế hàng năm là 10,45% trong đó nông- lâm- thủy sản là 3,38%, công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp 15,25% và thương mại dịch vụ 8,55%.

2/- Nâng cao tính xã hội hóa trong công tác giáo dục đào tạo, phong trào đền ơn đáp nghĩa, “xóa đói giảm nghèo”, các hoạt động văn hóa thông tin, thể dục thể thao và y tế để góp phần giải quyết có hiệu quả các vấn đề bức xúc đặt ra trong lĩnh vực văn hóa xã hội.

3/- Tiếp tục củng cố quốc phong- an ninh, giữ vững sự ổn định chính trị tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế- xã hội phát triển.

4/- Nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, tính tiên phong tính giai cấp của đội ngũ đảng viên, đồng thời tập trung củng cố các cơ sở Đảng yếu kém.

5/- Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, tinh giản bộ mày Nhà nước, phát huy dân chủ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, tích cực chống tham nhũng, quan liêu, gây phiền hà dân.

6/- Đổi mới và tăng cường công tác vận động quần chúng của Đảng để phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân.

7/- Đẩy mạnh ừng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo Chỉ thị 58-CT/TW của Bộ chính trị.

Đại hội cũng đã thống nhất đề ra những giải pháp lớn gồm:

Các giải pháp về kinh tế- xã hội:

- Củng cố nâng cao vai trò của các tổ chức chính trị- xã hội để phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.

- Các giải pháp về nâng cao hiệu lực hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền các cấp.

- Nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng, chú trong việc đổi mới phương thức lãnh đạo và lề lối làm việc.

Giải pháp về tổ chức cán bộ:

- Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Huyện lần thứ VIII, tuy còn những mặt tồn tại và hạn chế nhưng nhìn chung đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực. Cụ thể là:

1/- Kinh tế đạt mức tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế của Huyện có sự chuyển dịch đúng hướng.

- Từ năm 2000 đến 2005, kinh tế trên địa bàn Huyện đạt mức tăng trưởng bình quân 17,96% (vượt 7,49% so với Nghị quyết). Cơ cấu kinh tế của Huyện từng bước có sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng công nghiệp thương mại- dịch vụ tăng.

- Các chương trình, mục tiêu kinh tế lớn của Huyện đều đạt và vượt so với Nghị quyết Đại hội VIII đề ra. Đàn bò sữa đạt trên 20%, rau an toàn, hoa lan, cây kiểng phát triển mạnh ở một số xã, thị trấn.

- Tốc độ tăng trưởng sản xuất nông nghiệp giai đoạn 2000-2005 bình quân đạt 3,43% (vượt 0,02%), ngành công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp tăng 21,47% (vượt 6,22%), thương mại- dịch vụ tăng 27,13% (vượt 18,58%). Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống tiếp tục khôi phục và phát triển như mây-tre-lá, bánh tráng xuất khẩu.

- Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn Huyện đều đạt và vượt chỉ tiêu Thành Phố giao. Kết quả thu ngân sách trong 5 năm đạt 377 tỷ đồng, tăng bình quân 23,10%/năm. Chi ngân sách đảm bảo đúng luật, đúng chế độ chính sách và ưu tiên đầu tư cho những công trình, chương trình trọng điểm phục vụ nhiệm vụ chính trị của Huyện.

- Tuy nhiên, lĩnh vực kinh tế cũng còn nhiều mặt khó khăn hạn chế, các ngành kinh tế tăng trường cao nhưng chưa vững chắc, sản xuất nông nghiệp chưa có đột phá lớn và tăng chậm so với tiềm năng; công nghiệp phát triển nhanh nhưng còn mang tính tự phát; tổng giá trị ngành thương mại- dịch vụ còn chiềm tỷ trọng thấp trong cơ cấu kinh tế chung của Huyện. Các nguồn lực bên trong (đất đai, lao động, các thành phần kinh tế…) và nguồn lực bên ngoài (vốn khoa học công nghệ…) chưa khai thác tốt. Công tác quy hoạch phát triển kinh tế trên địa bàn chậm; kinh tế tập thể còn yếu. Tình trạng ô nhiễm môi trường cũng là vấn đề lớn đặt ra cần được giải quyết.

2/-Cơ sở hạ tầng kỹ thuật phát triển mạnh và tương đối toàn diện đã góp phần tạo ra diện mạo mới cho nông thôn Củ Chi.

- Việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật khá toàn diện. Trong đó, nhựa hóa đường giao thông nông thôn chiếm tỷ trọng 55,60%, kiên cố hóa kênh mương vùng kênh đông và các ngành khác 7,60%, văn hóa xã hội 35,9% chủ yếu là xây dựng các trường trung học phổ thông.

- Huỵên còn xây dựng Trung tâm văn hóa, Trung tâm thể dục thể thao, Nhà văn hóa xã Thái Mỹ, 10 nhà bia tưởng niệm liệt sĩ ở các xã Anh hùng và văn phòng 40 ấp, khu phố. Tiến hành nâng cấp sữa chữa các phòng khám khu vực, trạm y tế xã, thị trấn; lắp đặt đèn chiếu sáng dân lập theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Trong 5 năm 2000-2005 nhân dân Củ Chi đã đóng góp hàng trăm tỷ đồng cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn Huyện.

- Vấn đề môi trường, môi sinh được Huyện chỉ đạo giải quyết kịp thời. Đã xử ký kiên quyết đối với các cơ sở sản xuất, gây ô nhiễm môi trường. Chủ động phối hợp các ngành Thành Phố xử lý các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp gây ô nhiễm môi trường.

- Tuy nhiên đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho lĩnh vực văn hóa xã hội, các khu vui chơi giải trí còn nhiều hạn chế. Xây dựng cơ sở vật chất cho hoạt động văn hóa thể dục thể thao ở các xã, thị trấn có ít. Một số dự án triển khai bồi thường giải phóng mặt bằng còn chậm, chi trả tiền đền bù kéo dài và giải quyết tái định cư chưa tốt.

3/- Lĩnh vực hoạt động văn hóa- xã hội đạt và vượt nhiều chỉ tiêu quan trọng Nghị quyết đề ra, nhất là phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế và chăm lo đời sống nhân dân.

- Công tác giáo dục có tiến bộ đáng kể trong thực hiện các nhiệm vụ mục tiêu. Xây dựng trường lớp đảm bảo yêu cầu dạy và học. Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý được chuẩn hóa một số đạt trên chuẩn chất lượng và hiệu suất đào tạo các ngành các cấp đều tăng. Tỷ lệ huy động trẻ 5 tuổi vào mẫu giáo, 6 tuổi vào lớp 1 đạt 100%. Tỷ lệ học sinh lưu ban, nghỉ bỏ học giảm đáng kể. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp cuối cấp học và thi đậu vào các trường cao đẳng, đại học đều tăng hàng năm, năm sau cao hơn năm trước. Khoảng cách giáo dục giữa các quận nội thành so với Củ Chi  trong những năm học gần đây được kéo giảm. Năm học 2003-2004 và 2004-2005, kết quả tỷ lệ tốt nghiệp trung học cơ sở ở Củ Chi được xếp hạng 5 và hạng 3 so với toàn Thành Phố. Huyện giữ vững kết quả về xóa mù chữ, phổ cập tiểu học và hoàn thành mục tiêu phổ cập trung học cơ sở đúng độ tuổi như Nghị quyết đề ra.

- Hoạt động y tế có nhiều chuyển biến tích cực trong việc chăm lo sức khỏe của nhân dân. Huyện xây dựng 20 trạm y tế xã và thị trấn đạt chuẩn quốc gia. Đầu tư nâng cấp Trung tâm y tế và trạng bị nhiều thiết bị chuyên dùng hiện đại như máy CT Scaner, mở rộng thêm các chuyên khoa điều trị nâng tổng số giường bệnh từ 180 lên 300 giường. Trung tâm y tế Củ Chi là bệnh viện tuyến Huyện đầu tiên của cả nước thực hiện được việc mổ sọ não. Trình độ chuyên môn của đội ngũ y, bác sĩ được nâng cao, y đức có nhiều tiến bộ, chất lượng khám chữa bệnh ngày càng tốt hơn. Lòng tin của bệnh nhân đối với đội ngũ y, bác sĩ được nâng lên.

- Công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm lo đời sống diện chính sách và nhân dân nói chung đã thu hút được sự quan tâm của toàn xã hội, phát huy được tình làng nghĩa xóm, góp phần thu hẹp sự cách biệt giàu nghèo ở nông thôn. Qua thực hiện chương trình xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương và tole hóa nhà tranh tre, đến 2005 Củ Chi đã vận động xây tặng 3.806 nhà tình nghĩa, 3.754 nhà tình thương, 4.160 nhà trả góp hoàn thành cơ bản chương trình xóa hết nhà tranh, tre và hoàn thành chỉ tiêu xóa đói giảm nghèo trong năm 2003 (sớm 2 năm so với Nghị quyết).

- Hàng năm Huyện tạo và giải quyết việc làm cho trên 8.000 lao động góp phần làm chuyển dịch cơ cấu lao động trên địa bàn theo hướng tích cực và nâng tỷ lệ lao động có việc làm lên trên 95% với mức thu nhập bình quân đầu người đạt trên 8.000.000 đồng/người/năm.

- Công tác thông tin tuyên truyền có nhiều tiến bộ. Đài truyền thanh được đầu tư trang thiết bị hiện đại  với trên 90% số hộ được nghe đài qua hệ thống loa không dây. Phong trào văn hóa văn nghệ phát triển khá tốt cả chiều rộng lẫn chiều sâu góp phần phục vụ nhu cấu vui chơi, giải trí lành mạnh của nhân dân trung tâm thể dục thể thao, Trung tâm văn hóa Huyện có điều kiện thuận lợi tổ chức thi đấu và phát triển phong trào chung của Huyện.

- Đời sống văn hóa tinh thần nhân dân được nâng lên (100% hộ có phương tiện nghe nhìn), hơn 18% số dân thường xuyên tập luyện thể dục thể theo. Mỗi năm Huyện tổ chức hàng chục giải thi đấu thể thao cấp Huỵên và tham gia nhiều giải cấp Thành Phố đạt hàng trăm huy chương các loại. Cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư ngày càng phát triển và đi vào chiều sâu thu hút trên 90% hộ dân tham gia. Đến năm 2005 Huyện có 5 xã, 97 ấp, khu phố đăng ký xây dựng xã, ấp văn hóa, 60 ấp, khu phố và xã Thái Mỹ được công nhận đạt chuẩn văn hóa, có 54.013 hộ đạt chuẩn gia đình văn hóa, đạt tỷ lệ 85,73% so tổng hộ dân.

- Việc xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao trong nhiệm kỳ qua tuy đạt được những kết quả quan trọng nhưng nhìn chung chưa đáp dứng được yêu cầu thực tế. Chất lượng hoạt động của một số ấp, khu phố văn hóa chưa cao. Sự phân hóa giàu nghèo đang có chiều hướng gia tăng; tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp.

4/- Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị xã hội tạo tiền đề cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội của Huyện.

- Xác định củng cố quốc phòng an ninh là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cả nước trong thời kỳ mới. Huyện ủy thường xuyên chỉ đạo ngành công an tăng cường công tác nắm tình hình. Kịp thời phát hiện ngăn chặn việc tán phát các tài liệu phản động, giải quyết những vấn đề phức tạp không để phát sinh thành điểm nóng. Tập trung giải quyết ổn định các vụ khiếu kiện đông người chủ yếu là trong quá trình thực hiện giải tỏa đền bù cho các dự án lớn. Kịp thời giải quyết các vụ đình, lãng công mang tính tự phát của công nhân nhất là trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

- Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc phát triển mạnh và đi vào chiều sâu đã góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội.

- Quá trình thực hiện chương trình mục tiêu 3 giảm không chỉ làm chuyển hóa các địa bàn trọng điểm mà còn đấu tranh phòng chống có hiệu quả với các loại tội phạm. Vai trò của quần chúng nhân dân được phát huy nhất là trong việc tham gia tố giác, truy bắt tội phạm và giữ gìn an ninh trật tự xã hội.

- Công tác củng cố quốc phòng và quân sự địa phương đi vào nề nếp, có nhiều tiến bộ. Nhận thức của nhân dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được nâng cao. Hàng năm Huyện có kế hoạch rà soát bổ sung các phương án tác chiến và tổ chức diễn tập phòng thủ đạt yêu cầu đề ra. Thường xuyên thực hiện tốt công tác huấn luyện, hội thao, củng cố xây dựng lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên, hoàn thành các chỉ tiêu tuyển quân, chất lượng được nâng lên.

- Nhìn chung tình hình phạm pháp hình sự và tai nạn giao thông tuy giảm nhưng vẫn còn ở mức cao. Đáng lưu ý là số vụ cướp giật, trộm cắp tài sản gia tăng; trật tự xã hội còn diễn biến phức tạp; chất lượng lực lượng dân quân tự vệ còn thấp, công tác huấn luyện, hội thao chưa đạt kết quả cao.

5/- Công tác xây dựng Đảng có sự chuyển biến tích cực đã giữ vững và phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng.

- Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ đảng viên được quan tâm thường xuyên. Nhiều đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn như tổ chức nghiên cứu quán triệt các Nghị quyết của Đảng, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần nâng cao nhận thức, tạo sự thông nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng bộ. Công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên được cấp ủy Đảng quan tâm chỉ đạo. Đến cuối năm 2004, Đảng bộ có 84,12% cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh trong đó có 33 cơ sở Đảng (49,2%) giữ vững danh hiệu trong sạch vững mạnh 5 năm liền. Có 84,85% đảngviên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ, trong đó 20,78% đảng viên đủ tư cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đảng viên vi phạm tư cách chiếm tỷ lệ 0,62%. Trong 5 năm kết nạp 772 đảngviên vượt 48% so chỉ tiêu Nghị quyết  Đại hội đã đề ra.

- Một trong những kết quả nổi bật của công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ VIII là thực hiện tốt công tác cán bộ. Đa số cán bộ chủ chốt đều có trình độ cao cấp, cử nhân chính trị, đại học chuyên ngành, một số có trình độ thạc sĩ. Hàng năm Ban thường vụ Huyện ủy đều có kế hoạch rà soát, bổ sung việc quy hoạch tạo nguồn diện Thành ủy, Huyện ủy quản lý. Thực hiện tốt công tác đào tạo, đề bạt, bố trí và luân chuyển cán bộ. Đã mạnh dạn đề bạt bố trí cán bộ trẻ, nữ giữ các cương vị chủ chốt trong cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận, đoàn thể các cấp. Đã hoàn thành việc quy hoạch 11 chức danh do Thành ủy quản lý 29 đồng chí (nữ chiếm 27,6%) và 407 can 1bộ diện Huyện ủy quản lý (nữ chiếm 20%). Năm 2004 đã đề bạt bổ nhiệm 51 cán bộ, đào tạo dài hạn 180 đồng chí có trình độ cao đẳng, đại học, thực hiện luân chuyển cán bộ 37 trường hợp trong đó có 14 đồng chí luân chuyển theo quy hoạch diện Thành ủy quản lý.

- Công tác bảo vệ  chính trị nội bộ được coi trọng. Huyện ủy đã chỉ đạo chặt chẽ trong việc kết nạp đảng viên mới, tuyển dụng, đề bạt, bố trí cán bộ, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch vững mạnh đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Các cấp ủy Đảng coi trọng công tác kiểm tra, ngăn ngừa đảng viên vi phạm chủ trương của Đảng và pháp luật Nhà nước. Trong 5 năm 2000-2005 xử lý kỷ luật 96 đảng viên và 2 cơ sở Đảng sai phạm, nguyên nhân chủ yếu là một bộ phận cán bộ, đảng viên sa sút về phẩm chất đạo đức, tư lợi cố ý làm trái các quy định của pháp luật.

- Nhìn chung trong nhiệm kỳ Đại hội VIII, tuy chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên được nâng lên nhưng vẫn còn một vài cơ sở Đảng yếu kém, mất đoàn kết nội bộ kéo dài chậm được củng cố. Công tác kiểm tra của một số cấp ủy và ủy ban cơ sở còn yếu, nể nang sợ dụng chạm. Việc luân chuyện quy hoạch đào tạo, đề bạt bố trí cán bộ trẻ, nữ chỉ mới đáp ứng yêu cầu trước mắt. Một số mới đội ngũ cán bộ  dự bị kế thừa vẫn còn hụt hẩng; tỷ lệ cán bộ có trình độ nghiệp vụ chuyên ngành còn thấp. Một bộ phận đảng viên còn ngán ngại trong việc học tập, công tác tự phê bình và phê bình yếu; đấu tranh xây dựng nội bộ thiếu mạnh dạng, thấy sai không dám phê phán, thấy đúng không dám bảo vệ.

6/- Hệ thống bộ máy chính quyền các cấp được kiện toàn một bướcvề tổ chức, bộ máy và đội ngũ cán bộ hiệu quả quản lý được nâng lên.

- Qua thực hiện cải cách hành chính, khoán quỹ lương và tinh gọn bộ máy, đa số cán bộ viên chức, công chức đều thực hiện tốt thực thi công vụ. Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân Huyện duy trì tổ chức tốt công tác tiếp dân định kỳ, qua đó tiếp nhận, giải quyết có hiệu quả các đơn thư khiếu nại, tố cáo, giảm bớt phiền hà cho dân. Đội ngũ cán bộ nữ trẻ chiếm tỷ lệ ngày càng tăng ở các cương vị chủ chốt trong bộ máy quản lý hành chính Nhà nước của Huyện và cơ sở. Lĩnh vực tư pháp đạt được một số kết quả trong công tác xét xử, hiệu quả hoạt động của cơ quan bảo vệ pháp luật được nâng lên. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, hoạt động của hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, Mặt trận ở ấp, khu phố dần di vào nề nếp và đạt hiệu quả tốt hơn.

X.- ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ CỦ CHI LẦN THỨ IX (9/2005) VÀ NHỮNG NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI CỦA HUYỆN ĐẾN NĂM 2010 (2005-2010).

- Thực hiện Chỉ thị 46-CT/TW ngày 06/12/2004 của Bộ chính trị về Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng. Đảng bộ Củ Chi đã xây dựng kế hoạch và chỉ đạo các chi, Đảng bộ trực thuộc mở đại hội cấp cơ sở và chuẩn bị nội dung, nhân sự cho Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ IX. Trong quá trình chuẩn bị Đại hội, được sự quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ của Thành ủy mà trực tiếp là Ban chỉ đạo và các tổ chỉ đạo Đại hội Thành ủy.

- Đại hội Đại biểu Đảng bộ Huyện Củ Chi lần thứ IX đã được tổ chức trong 3 ngày 12,13 và 14/9/2005 tại Hội trường Huyện. Đại hội diễn ra trong bối cảnh, sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn quân Huyện Củ Chi đã tổ chức lễ kỷ niệm 30 năm giải phóng Củ Chi, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và đón nhận danh hiệu cao quý do Đảng và Nhà nước phong tặng: “Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới”.

- Đại hội Đại biểu Đảng bộ Huyện lần này có nhiệm vụ tổng kết đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ VIII, đề ra phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ IX; thảo luận đóng góp ý kiến các dự thảo văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành Phố lần thứ VIII, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng; bầu Ban chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ mới và bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ Thành Phố lần thứ VIII.

- Tham dự Đại hội có 200 đại biểu thay mặt cho hơn 4.458 đảng viên đang sinh hoạt trong 71 tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ; Đại hội vinh dự được đón nhận động chí Võ Văn Cương- Phó Bí thứ Thành ủy, Trưởng Ban chỉ đạo Đại hội Thành ủy và các đồng chí thành viên Ban chỉ đạo Đại hội Thành ủy. Đồng chí Lê Hữu Đức- Ủy viên Ban thường vụ, các đồng chí lãnh đạo và chuyên viên các ban Thành ủy, các đồng chí cách mạng lão thành, bà mẹ Việt Nam Anh hùng, các đồng chí Bí thư, Phó Bí thư các nhiệm kỳ, đồng chí đại diện lãnh đạo Đảng ủy, Bộ chỉ huy Sư đoàn 9, các đồng chí Bí thư Huyện và các Ban Đảng Huyện ủy Hóc Môn, Bình Chánh, Nhà Bè và Cần Giờ.

- Thay mặt Đoàn chủ tịch đồng chí Trà Văn Quýnh- Thành ủy viên Bí thư Huyện ủy đã trình bày báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ trước Đại hội. Báo cáo chính trị gồm hai phân:

1.- Phần thứ nhất: Tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện trong 5 năm qua.

2.- Phần thứ hai: Định hướng phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2005-2010.

- Đại hội đã thông qua Nghị quyết về các chỉ tiêu phấn đấu của Đảng bộ trong 5 năm (2005-2010) như sau:

1.- Về kinh tế: Đẩy nhanh tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng công nông nghiệp- thương mại- dịch vụ. Tập trung phát huy mọi nguồn lực trong các thành phần kinh tế nhằm đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế, từng bước phát triển Củ Chi trở thành một Thành Phố vệ tinh của Thành Phố Hồ Chí Minh, hiện đại và phát triển bền vững trong thời kỳ mới, tiến lên giàu mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

* Chỉ tiêu: giữ vững tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 18,76% trong đó:

- Giá trị sản xuất công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp: 8.259,763 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 80,94%, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 20,76%.

- Giá trị sản xuất nông- lâm- thủy sản: 821,295 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 8,05%, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 5,44%.

- Giá trị sản xuất ngành thương mại- dịch vụ 1.123 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 11,01, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 18,89%.

- Phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị, nâng cao giá trị sản xuất, đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái để nông nghiệp phát triển bền vững. Định hướng trong giai đoạn 2005-2010 Huyện tập trung phát triển chương trình  “2 cây, 2 con” gồm cây rau an toàn và hoa lan cây kiểng, con bò sữa và con cá sấu, nâng tỷ trọng chăn nuôi lên 36%.

- Ngành trồng trọt chuyển đổi cơ cấu cây trồng có giá trị kinh tế cao thay thế cây lúa với giống tốt, chất lượng và áp dụng khoa học kỹ thuật mới, nhằm tăng năng suất và chất lượng nông sản thành phần gồm một số cây trồng chủ yếu.

- Cây lúa từ 14.344ha giảm còn 5.900ha, chủ yếu sản xuất lúa giống, tập trung ở các xã có nguồn nước kênh Đông.

- Cây rau an toàn diện tích canh tác từ 855ha tăng lên 3.000ha, phát triển ở các xã đủ điều kiện sản xuất rau  an toàn, trong đó tập trung 4 xã: Tân Phú Trung, Nhuận Đức, Bình Mỹ, Trung Lập Hạ.

- Hoa lan, cây kiểng từ 45ha, tăng lên 500ha, tập trung ở các xã ven sông Sài Gòn.

- Chuyển đổi diện tích lúa sang đầu tư khu đô thị Tây Bắc và các khu công nghiệp, cụm công nghiệp khoảng 3.340ha (trong thời gian chờ triển khai đầu tư sẽ tận dụng trồng cỏ phục vụ chăn nuôi bò sữa và bò thịt khoảng 1.000ha.

- Ngành chăn nuôi tiếp tục đẩy mạnh, từng bước cân bằng giữa trồng trọt và chăn nuôi, cụ thể đến năm 2010.

* Bò sữa: Phát triển 35.000 con, theo hướng tăng chất lượng và qui mô hộ chăn nuôi từ 10 con trở lên.

* Cá sấu: 2.000 con, phát triển trong hộ gia đình.

* Đàn heo: phát triển 75.000 con, theo hướng phát triển trong trang trại.

* Bò thịt:  phát triển 16.000 con, phát triển trong hộ gia đình.

* Các loại vật nuôi khác như trăn, ếch, thỏ phát triển theo qui mô hộ gia đình.

- Đầu tư xây dựng thêm 2 khu công nghiệp tập trung, gồm khu công nghiệp cơ khí chế tạo Hòa Phú- Tân Thạnh Đông 300ha và khu công nghiệp hóa hoạc dược Phước Hiệp- Trung Lập Hạ 200ha.

- Đầu tư 5 cụm công nghiệp ở các xã với tổng diện tích trên 500ha (cụm Bàu Đưng, An Nhơn Tây 122ha, cụm Bàu Trăn, Nhuận Đức 100ha, cụm Phạm Văn Cội 100ha, cụm Tân Quy 100ha, cụm công nghiệp ôtô Samco, Tân Thạnh Đông- Hòa Phú 112ha).

- Bố trí công nghiệp sạch thêm 2 tuyến đường Nguyễn Thị Rành và Tỉnh lộ 7 (nâng lên 7 tuyến đường nội bộ được bố trí công nghiệp sách) nhằm phân bổ công nghiệp mở rộng thêm trên địa bàn các xã, thị trấn. Phấn d0ấu trong 5 năm tới tổng thu ngân sách  Nhà nước trên địa bàn Huyện đạt 468,499 tỷ đồng, tăng 24,23% so với nhiệm kỳ qua.

2/- Văn hóa- xã hội:

- Về giáo dục, phấn đấu đến 2010 xây dựng từ 50-60% số trường đạt  chuẩn quốc gia. Giữ vững kết quả đã được về xóa mù chữ, phổ cập tiểu học, trung học cơ sở đúng độ tuổi, phấn đấu hoàn thành phổ cập trung học phổ thông vào năm 2007, nhất là số thanh niên trong diện tuổi chưa có việc làm ổn định. Tập trung huy động 100% trẻ em nghỉ, bỏ học.

- Nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành y tế trong việc bảo vệ, chăm sóc  sức khỏe cho nhân dân, chủ động phòng ngừa và ngăn chặn các loại  dịch bệnh. Quan tâm đào tạo nghiệp vụ chuyên môn với việc nâng cao y đức của người thầy thuốc. Tiếp tục đầu tư hiện đại hóa phương tiện, trang thiết bị y tế chuyên dùng, mở rộng các chuyên khoa sâu phục vụ cho việc khám điều trị như lọc máu ngoài thận, mổ nội soi, khoa ngoại thần kinh và các chuyên khoa khác. Phấn đấu đến năm 2010 Củ Chi hoàn thành cơ bản việc xây dựng trạm y tế xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia.

- Hoàn thành việc xây dựng nhà văn hóa các xã, thị trấn. Đồng thời có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ phong trào cho nhà văn hóa. Phấn đấu đến 2010 toàn Huyện có từ 50-60% số ấp, khu phố đạt chuẩn văn hóa, 3 đến 4 xã, thị trấn đạt chuẩn văn hóa và 2 xã nông thôn mới toàn diện.

- Phấn đấu đến 2009 Huyện Củ Chi sẽ hoàn thành chỉ tiêu xóa đói giảm nghèo theo tiêu chí 6 triệu đồng/người/năm. Hàng năm đào tạo, giới thiệu và tạo việc làm ổn định cho từ 6.000 đến 8.000 lao động.

3/- Về an ninh quốc phòng:

- Tiếp tục thực hiện mục tiêu giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội, thực hiện đạt 100% công tác tuyển quân nghĩa vụ quân sự ở cả 2 cấp, diễn tập phòng thủ, hội thao quốc phòng,tiếp tục nâng cao đời sống vật chất và văn hóa cho cán bộ chiến sĩ lực lượng võ trang. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, hoạt động hiệu quả đạt tỷ lệ theo quy định.

- Tăng cường công tác đấu tramh phòng chống các loại tội phạm phấn đấu kéo giảm số vụ phạm pháp hình sự từ 5%-7%, tỷ lệ phá án đạt 65%-70%, trong đó phá các vụ trọng án đạt trên 90%.

- Duy trì và giữ vững địa bàn không còn người nghiện ma túy, kiểmtra, giám sát, phát hiện kịp thời đối tượng nghiện ma túy mới phát sinh. Sử dụng đồng bộ các biện pháp để kéo giảm tội phạm, ma túy, mại dâm; tiếp tục xác định công tác đấu tranh phòng chống ma túy vừa có yêu cầu cấp bách trước mắt, vừa lâu dài, ngăn chặn có hiệu quả các tổ chức, cá nhân mua bán,tàng trữ trái phép các chất ma túy và tổ chức sử dụng ma túy.

- Vận động nhanh dân, cán bộ công chức, công nhân, học sinh, lực lượng võ trang và gia đình chấp hành pháp luật xây dựng nếp sống văn ming đô thị trong trật tự an toàn giao thông đường bộ.

- Triển khai các biện pháp phòng chống cháy nổ, thường xuyên kiểm tra các khu vực có nguy cơ cháy cao ở khu dân cư và khu vực trồng rừng, cây lâm nghiệp, cây công nghiệp dài ngày. Tổ chức lực lượng phòng cháy chữa cháy tại chỗ, lắp đặt các trụ nước phòng cháy chữa cháy theo kế hoạch.

4/- Về xây dựng hệ thống chính trị:

- Phấn đấu đến năm 2010 không còn đơn vị yếu kém và có 86% cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng dược 80% chi bộ Đảng ở các doanh nghiệp tư nhân có điều kiện.

- Phấn đấu trong nhiệm kỳ kết nạp từ 700-800 đảng viên mới.

- Phấn đấu đến Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ X, Củ Chi có đội ngũ cán bộ được chuẩn hóa theo yêu cầu của Thành Phố.

- Phấn đấu trong 5 năm tới có thêm khoảng 400 cán bộ có trình độ Đại hội, cao cấp và cử nhân chính trị.

- Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước cấp Huyện và cơ sở. Thực hiện tốt cải cách hành chính, giải quyết tốt,  nhanh gọn yêu cầu chính đáng của nhân dân.

-Các Hội, đoàn chăm lo giải quyết những nguyện vọng,  lợi ích chính đáng của quần  chúng.

- Tiếp tục đổi mới nội dung phương thức tổ chức, hoạt động của Ủy ban mặt trận và các đoàn thể để nâng cao vai trò cơ quan đại diện và thực sự là chỗ dựa tin cậy của nhân dân.

- Đại hội đã bầu  Ban chấp hành Đảng bộ khóa IX (nhiệm kỳ 2005-2010) gồm 39 đồng chí. Trong phiên họp thứ nhất của Ban chấp hành đã bầu ra Ban thường vụ Huyện ủy gồm 11 đồng chí. Đồng chí Trà Văn Quýnh được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy; đồng chí Nguyễn Văn Bu được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư Thường trực và đồng chí Lâm Văn Sơn giữ chức vụ Phó Bí thư.

- Dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Đảng bộ Huyện khóa IX, trên 28000 nhân dân Củ Chi sẽ phát huy những thành quả đạt được trong 30năm xây dựng  chủ nghĩa xã hội, đặc biết là trong 20 năm thực hiện đường lối đổi mới để tiếp tục phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ  xứng đáng với danh hiệu cao quí được Đảng và Nhà nước phong tặng : “Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới”.

bottom of page