top of page
30 - 75 C2.png

I. Phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân Củ Chi trước khi có Đảng Cộng sản Việt Nam (1859-1930).

            Được thừa hưởng truyền thống yêu nước và tinh thần đấu tranh chống ngoại xâm kiên cường bất khuất của dân tộc, lại bị áp bức bóc lột nặng nề nên ngay khi quân xâm lược Pháp nổ súng tấn công xâm lược nước ta, nhân dân Củ Chi đã liên tục tham gia kháng chiến chống Pháp.

            Sau khi đánh chiếm Đà Nẵng, thực dân Pháp đưa quân đánh chiếm Sài gòn, Gia Định. Mặc dù chiếm được thành Gia Định nhưng quân Pháp ngày đêm phải chống trả với sự kháng cự của nhân dân ta. Giặc Pháp tiếp tục tấn công đồn Thuận Kiều, nghĩa quân của Trương Định chiến đấu quyết liệt nhưng lực lượng quá yếu phải rút lui, giặc chiếm luôn các đồn Tân Thới, Rạch Tra và cả vùng 18 thôn vườn trầu.

            Tháng 2/1862, nghĩa quân Trương Định đánh diệt đồn Tây Thới (ở ngã ba ấp đồn, xã Tân Thới Nhì) giết chết tên quan ba Pháp, chúng chôn gần ngã ba ấp Đồn, nhân dân ở đây thường gọi mã thằng Tây. Trương Định tiếp tục kháng chiến, đến đâu đều được nhân dân hưởng ứng. Năm 1864 Trương Định bị giặc bắt, ông đã tự mổ bụng chết chứ không đầu hàng giặc. Con trai của Trương Định là Trương Quyền tiếp tục sự nghiệp của cha cầm quân chiến đấu. Vùng đất Củ Chi lúc đó được Trương Quyền chọn làm căn cứ kháng chiến. Người dân Củ Chi một lòng, một dạ nuôi dưỡng che chở cho nghĩa quân hoạt động diệt đồn Rạch Tra giết tên quan ba trưởng đồn Pháp, tiêu diệt đồn Thuận Kiều và nhiều nơi khác. Năm 1870, Trương Quyền bị bệnh chết, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Củ Chi chỉ hoạt động lẻ tẻ.

            Một phong trào chống Pháp do Nguyễn ảnh Thủ lãnh đạo lại bùng lên, cùng với nhân dân vùng Hóc môn, Bà Điểm người dân Củ Chi lại đứng dậy chiến đấu. Cuộc khởi nghĩa tiến hành ngày 14/5/1871, nghĩa quân đánh chiếm Bà Điểm và tiêu diệt đồn Thuận Kiều, giết tên quan hai Pháp trưởng đồn và nhiều binh lính, ông hy sinh trong lúc chiến đấu. Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn ảnh Thủ đã gây được tiếng vang trong vùng, khơi dậy và nung nấu thêm tinh thần yêu nước chống Pháp của nhân dân.

            Tiếp theo là cuộc khởi nghĩa của Phan Công Hớn, ông là một nông dân văn hay võ giỏi, với tinh thần hào phóng ngay thẳng có tình thương yêu đồng bào, thường đứng ra bênh vực nhân dân chống lại bọn cường hào ác bá nên được nhân dân cảm mến. Tên Đốc phủ sứ Trần Tử Ca, một tên đã gây nhiều tội ác với nhân dân được quan thầy Pháp thưởng “bắc đẩu bội tinh” và giao làm quận trưởng Hóc Môn, Trần Tử Ca vu khống Phan Công Hớn là có âm mưu làm loạn nên bắt ông đày ra Côn Đảo 5 năm tù. Khi mãn hạn tù về, ông đã dần dần tập hợp lực lượng. Đêm 9/2/1885 nghĩa quân tấn công vào quận lỵ, giết được tên Ca.

            Giặc Pháp không bắt được Phan Công Hớn và Nguyễn Văn Hóa, chúng bắt gia đình hai ông và nhiều dân thường để tra khảo và tuyên bố nếu không bắt được hai ông thì chúng sẽ giết hết những người dân  này... Vì thương dân nên hai ông ra nạp mình cho Pháp để cứu nhân dân, giặc Pháp đã đưa hai ông ra hành hình ngày 30/3/1885 tại chợ Hóc Môn.

            Nhân dân Củ Chi còn tham gia hội kín Phan Xích Long (1913-1916), phong trào hội kín Nguyễn An Ninh (1924-1929), phong trào công nhân và các phong trào yêu nước khác. Mặc dù nhân dân có tinh thần yêu nước rất cao, nhưng do chưa có một đường lối cách mạng đúng nên các phong trào yêu nước trước khi có Đảng Cộng sản Việt Nam đều thất bại. Tuy nhiên, qua các phong trào yêu nước, đã khơi thêm tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc Pháp xâm lược trong các tầng lớp nhân dân, rèn luyện ý chí quyết tâm giành độc lập tự do. Vùng đất Củ Chi là mảnh đất tốt cho chủ nghĩa Mác-Lênin truyền vào để gieo những hạt giống đầu tiên của các tổ chức cộng sản.

II. Phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Củ Chi từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam đến Cách mạng Tháng Tám 1945 (1930-1945)

            Năm 1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành từ Sài gòn ra đi tìm đường cứu nước, đã sớm tiếp thu được chủ nghĩa Mác-Lênin và ánh sáng của cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.

            Ngày 29/12/1920, tại Đại hội Đảng xã hội Pháp, với tên Nguyễn ái Quốc, anh là người Việt Nam đầu tiên bỏ phiếu đứng về phía Quốc tế Cộng sản và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Tiếp thu được chủ nghĩa Mác-Lênin, Nguyễn ái Quốc đã rút ra kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.

Cuối năm 1924, sau khi về đến Quảng Châu- Trung Quốc, Nguyễn ái Quốc  lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (tức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội) nhằm tập hợp những thanh niên Việt Nam yêu nước. Trong tổ chức này có những người cộng sản làm hạt nhân lãnh đạo.

            Trong các năm 1928-1929 phong trào đấu tranh của công nhân ngày càng thể hiện tính rầm rộ và quyết liệt hơn, nhất là khi Hội Việt Nam cách mạng thanh niên thực hiện chủ trương “vô sản hóa” vào các cơ sở xí nghiệp và công tác tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin được đẩy mạnh trong hàng ngũ công nhân.

            Sự phát triển nhảy vọt của phong trào cách mạng trong cả nước đã đặt ra đòi hỏi cấp thiết là phải có sự lãnh đạo của một chính Đảng thật sự của giai cấp công nhân. Để đáp ứng đòi hỏi này, những người tiên tiến trong Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã lần lượt lập ra ba tổ chức cộng sản trên đất nước ta. Ba tổ chức cộng sản ra đời là hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của đất nước, đi đúng quỹ đạo của thời đại, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở nước ta. Nhưng do chưa có sự thống nhất về mặt tổ chức nên đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến phong trào cách mạng lúc bấy giờ.

            Với tư cách là đại diện của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Nguyễn ái Quốc  đã triệu tập hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam vào ngày 3/2/1930 lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một bước ngoặc vĩ đại trong lịch sử cách mạng nước ta, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.

            Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã thúc đẩy các tổ chức cộng sản trong cả nước nhanh chóng thống nhất lại ở Nam bộ, xứ ủy lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam (lúc đó gọi tắt là Xứ ủy) được thành lập do đồng chí Ngô Gia Tự làm Bí thư. Được sự chỉ đạo của Xứ ủy, Ban Chấp hành tỉnh ủy lâm thời tỉnh Gia Định đầu tiên cũng được chỉ định gồm có 5 đồng chí: Lê Trọng Mân (Khôi), Nguyễn Chí Diễu (Trọng), Hồ Văn Long (giáo Long); Bùi Văn Châu (giáo Châu); Lê Văn Phận (Kiến), đồng chí Lê Trọng Mân được cử làm Bí thư.

Ở Củ Chi vào những năm trước năm 1929, hội kín Nguyễn An Ninh đã gây dựng được khá nhiều cơ sở, hội đã thu hút được nhiều tầng lớp nhân dân địa phương tham gia, như ở Tân Phú Trung, Tân An Hội, Phước Vĩnh An.

            Cuối năm 1929 đồng chí Lê Trọng Mân (tức Bảy Khôi) và đồng chí Bùi Văn Châu (còn gọi là giáo Châu) hai đồng chí này khi đó là đảng viên của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đã về vùng Hóc Môn, Củ Chi ngày nay để vận động giáo dục, tuyên truyền nhằm gây dựng cơ sở Đảng ở vùng này. Nhờ vậy mà đến đầu năm 1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam đã gây dựng được nhiều cơ sở ở các xã Bình Lý, Tân Mỹ Củ Chi (tức vùng Bình Mỹ ngày nay).

            Sau sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930, thì hàng loạt chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam cũng được ra đời sớm ở các làng, thôn của Củ Chi như:  chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam xã Bình Lý gồm các đồng chí: Đồng chí Đậu; đồng chí Thăng, đồng chí Cơ, đồng chí Phèn, chi bộ xã Tân Phú Trung có 3 đảng viên do đồng chí Phan Văn Ngỗng làm Bí thư: chi bộ xã An Nhơn Tây, do đồng chí Chín Mộc làm Bí thư, chi bộ Phú Hòa Đông và chi bộ một số xã khác... ở các xã Phước Vĩnh An, Tân An Hội tuy chưa thành lập chi bộ, nhưng đã phát triển được đảng viên. Trước sự ra đời hàng loạt các chi bộ ở vùng Hóc Môn Củ Chi, với tư cách là Bí thư của tỉnh Gia Định, đồng chí Lê Trọng Mân đã chỉ chị thành lập Ban cán sự vận động Huyện ủy Hóc Môn, đây cũng là cấp ủy đầu tiên của Huyện, gồm các đồng chí: đồng chí Thặng (người Bình Lý) làm Bí thư; đồng chí Cơ; đồng chí Phèn; đồng chí Đậu, đồng chí Tập... Huyện ủy viên.

            Với việc ra đời hàng loạt chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam ở các xã, cùng với sự thành lập Ban cán sự vận động Huyện ủy Hóc Môn. Kể từ đây mọi phong trào hoạt động cách mạng của nhân dân Củ Chi đều có sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam từ tỉnh, huyện đến xã.

            Từ khi có Đảng ra đời thì phong trào cách mạng của nhân dân Củ Chi đã chuyển sang một thời kỳ mới. Sau khi Đảng được thành lập, các tổ chức quần chúng nhanh chóng được củng cố lại như: Nông hội đỏ, Thanh niên, Phụ nữ, Cứu tế đỏ và các nghiệp đoàn,.. Đảng còn đưa người vào nắm các tổ chức công khai như: Hội tương tế ái hữu, Hội miếu, hội chùa, hội đá banh... Từ khi có Đảng phong trào cách mạng của nhân dân Củ Chi phát triển mạnh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cùng với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thành phố thì phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ chống khủng bố của nhân dân Củ Chi đã liên tiếp nổ ra. Nổi bật nhất là ngày 6/1/1930 (âm lịch), nhân dân xã Tân Phú Trung kéo biểu tình, rải truyền đơn, mang theo cờ đỏ búa liềm, đòi giảm thuế thân, giảm giờ làm việc và tăng lương cho thợ thuyền trong thành phố. Đoàn biểu tình kéo đi gần 1 km và tập trung tại đình Bến Đò. ở đây họ vinh dự được nghe đồng chí Hà Huy Tập đến diễn thuyết.

            Ngày 4/6/1930, nhân dân các xã Bình Lý, Tân Mỹ, Tân Thạnh Tây, Tân Phú Trung cùng nhân dân Hóc Môn, Đức Hòa dưới sự lãnh đạo của đồng chí Lê Trọng Mân Bí thư tỉnh ủy Gia Định và các đồng chí Võ Văn Thặng, Bùi Văn Châu lãnh đạo, đã rầm rộ kéo về tập trung ở huyện lỵ Hóc Môn đấu tranh, quần chúng biểu tình mang theo cờ đỏ búa liềm và khẩu hiệu “đánh đổ đế quốc, địa chủ và quan làng”. Địch đã huy động binh lính đến đàn áp, quần chúng biểu tình đã vật lộn với binh lính địch, có người bị giặc bắn gần chết mà vẫn xông lên cắn cổ Tây.

Trong cuộc đấu tranh này giặc đã bắt đi gần 400 người, trong đó có nhiều người dân Củ Chi. Đặc biệt từ tháng 10/1930, hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng, nhiều cuộc biểu tình mít tinh của nhân dân các xã Tân Mỹ (nay là Bình Mỹ), Tân Thạnh Đông, Tân Phú Trung. . . nổ ra để ủng hộ Xô viết Nghệ tĩnh.

            Đứng trước cao trào cách mạng của nhân dân Gia Định ngày một phát triển. Tháng 9/1930 Đại hội Đảng bộ tỉnh Gia Định đầu tiên được tiến hành tại xã Vinh Lộc (nay thuộc Bình Chánh), Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ mới của tỉnh gồm những đồng chí Nguyễn Chí Diễu, Hồ Văn Long, Bùi Văn Châu, Lê Văn Phận, Nguyễn Thanh Sơn. Từ đây phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân có sự lãnh đạo thống nhất của tỉnh ủy. Trong hai tháng 9 và 10 năm 1930 phong trào đấu tranh của nhân dân Gia Định nổ ra ở khắp nơi và liên tục.

            Tháng 8 năm 1930, nhân dân Hòa Phú dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đứng lên đấu tranh chống sưu cao thuế nặng. Cũng trong năm 1930, công nhân đồn điền cao su Mây Sắt (Phú Mỹ Hưng) kết hợp với công nhân đồn điền cao su Chà Vơ (An Nhơn Tây) đấu tranh chống sa thải, đòi tăng lương. Trước khi thế đấu tranh mạnh mẽ của công nhân bọn chủ hai đồn điền này buộc phải chấp nhận yêu sách của công nhân.

Đặc biệt tháng 10/1930 khi có lời kêu gọi của Trung ương Đảng ủng hộ Xô viết Nghệ tĩnh, nhiều cuộc biểu tình diễn ra ở Tân Mỹ, Bình Lý, Tân Thạnh Đông, Tân Phú Trung.

            Từ cuối năm 1930 sang năm 1931, bọn địch đã tiến hành khủng bố trắng. Cơ sở Đảng ở Củ Chi bị tổn thất. Phong trào đấu tranh của quần chúng có lắng xuống. Thời kỳ từ năm 1932 đến năm 1935 Đảng đi sâu vào quần chúng, chấn chỉnh đội ngũ, củng cố cơ sở. Tuy bị khủng bố trắng, nhưng Đảng vẫn bám dân để lãnh đạo phong trào. Thời kỳ này, nhiều cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân Củ Chi vẫn liên tục nổ ra dưới hình thức đòi cải thiện dân sinh, dân chủ.

            Đầu năm 1932, nghiệp đoàn xe ngựa Hóc Môn- Củ Chi đấu tranh phản đối sưu cao, thuế nặng. Ngày 8/4/1932 hơn 1.400 nông dân Hóc Môn, Củ Chi kéo về huyện lỵ Hóc Môn đấu tranh trực diện với kẻ thù để chống thuế, chống khủng bố trắng.

Cuối năm 1932, nông dân xã Tân Thông Hội đấu tranh đòi giảm thuế-  Năm 1933, nông dân các xã Tân Phú Trung, Phước Vĩnh An, Tân Thạnh Đông- đấu tranh chống bọn cường hào địa chủ có nhiều nợ máu với nhân dân. Nhân dân đã vạch mặt chỉ tên chúng.

            Từ năm 1933 đến năm 1934, nhiều cuộc đấu tranh của công nhân đồn điền cao su Mây Sắt (Phú Mỹ Hưng), Chà Vơ (An Nhơn Tây) đấu tranh chống bọn chủ sa thải công nhân. Công nhân còn treo cờ và biểu ngữ (ở ngã ba đường từ Phú Mỹ Hưng đến An Nhơn Tây).

Nhìn chung từ cuối năm 1930 đến 1935, mặc dù bị quân thù tiến hành khủng bố trắng, cơ sở Đảng và các tổ chức quần chúng ở Củ Chi có bị tổn thất. Nhưng cán bộ đảng viên được quần chúng cách mạng che chở vẫn kiên trì, bám dân, bám đất gây dựng phong trào. Tấm gương hy sinh anh dũng của những đồng chí cán bộ, đảng viên đã làm cho quần chúng nhân dân Củ Chi càng tin ở Đảng. Trong thời gian này phong trào đấu tranh của nhân dân Củ Chi không nổ ra rầm rộ như đầu năm 1930, nhưng phong trào không bị dập tắt mà vẫn nổ ra liên tục từ năm 1932-1934, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Củ Chi thời kỳ này đứng về diện mà nói cũng tương đối rộng, phong trào đã thu hút được nhiều tầng lớp nhân dân Củ Chi tham gia.

            Thời kỳ từ năm 1936 đến 1939, là thời kỳ Mặt trận dân chủ, Đảng ta ra hoạt động công khai, các tổ chức quần chúng được tập hợp lại và thành lập ủy ban hành động. Ngày 9/9/1936, Trung ương Đảng đã họp để kiểm điểm việc thực hiện các chủ trương đường lối và chỉ thị cho các địa phương chuẩn bị cho Đông Dương Đại hội. Tháng 11/1936, tỉnh ủy Gia Định chủ trương đấu tranh công khai đòi tự do dân chủ, đòi bãi thuế, cải thiện đời sống. Thực hiện chủ trương của tỉnh ủy, dưới sự lãnh đạo của huyện ủy Hóc Môn, đến cuối năm 1936, khắp vùng nông thôn của Củ Chi mỗi xã, mỗi làng đều thành lập ủy ban hành động.

            Các ủy ban hành động phân phát truyền đơn, báo chí của Đảng cổ động toàn dân tiến lên “Đại hội Đông dương”. Một không khí sinh hoạt chính trị công khai, hừng hực khí thế của quần chúng dưới nhiều hình thức, để bàn bạc, thảo luận giữa ban ngày về tình hình thế giới, tình hình trong nước và các quyền tự do dân chủ, chưa bao giờ người dân Củ Chi được tự do như lúc này. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, đầu năm 1936, nông dân xã Tân Thạnh Tây đấu tranh với bọn địa chủ để giành lại đất công. Năm 1937, nông dân xã Tân Thông Hội đấu tranh chống chính sách thu mua thuốc lá của bọn thực dân với giá rẻ mạt. Năm 1938, công nhân đồn điền cao su ở An Nhơn Tây và Phú Mỹ Hưng lại bãi công. Năm 1939, 300 nông dân ở Bàu Lách, Bàu Trăn kết hợp với 170 công nhân ở sở cao su Nhuận Đức đấu tranh chống địch.

Có thể nói từ năm 1936, với sự hoạt động công khai của Đảng, phong trào đấu tranh của nhân dân Củ Chi đã phát triển mạnh mẽ và đều khắp, làm cho địch phải hoảng sợ trước khí thế của quần chúng nhân dân. Từ năm 1936 đến 1939, đã diễn ra nhiều cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân Củ Chi.

            Tháng 3/1939, trước nguy cơ thảm họa phát xít đang đến gần, Đảng tuyên bố kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân thống nhất hành động, đấu tranh đòi quyền tự do dân  chủ, chống nguy cơ chiến tranh, chống âm mưu chia rẽ của bọn phản động.

Cuộc vận động Mặt trận dân chủ Đông dương (1936-1939) của nhân dân Củ Chi, dưới sự lãnh đạo của Đảng thật sự là một cao trào cách mạng dân chủ rộng lớn, trong quá trình lãnh đạo cao trào này, trình độ chính trị của cán bộ, đảng viên được nâng lên. Diễn biến phong trào trong những năm 1936 đến 1939, đã thực sự trở thành ngày hội của người dân Củ Chi. Nhiều cuộc biểu tình của nông dân chống tô tức rất mạnh mẽ, ở một số đồn điền, công nhân biểu tình chống cúp phạt đòi tăng lương đạt kết quả tốt.

            Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, bọn thực dân Pháp ở Đông dương đã thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta do Đảng lãnh đạo. Đứng trước tình hình đó, Trung ương Đảng nhận định khả năng hoạt động hợp pháp không còn nữa, nên Trung ương Đảng đã kịp thời chỉ thị cho các cơ quan và cán bộ đang hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp phải nhanh chóng rút vào bí mật.

            Tháng 11/1939, Trung ương họp hội nghị lần thứ 6, hội nghị này Trung ương nhấn mạnh: Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông dương. Để giải quyết nhiệm vụ này, Đảng chủ trương tạm gác một số nhiệm vụ, đồng thời phải mở rộng Mặt trận thống nhất phản đế Đông dương. Về hình thức đấu tranh thì Trung ương nêu rõ: Cần phải thay đổi sao cho phù hợp với nhiệm vụ mới và chuẩn bị “bước tới bạo động cách mạng giải phóng dân tộc”. Song phải hết sức tránh bạo động non, đấu tranh không phương pháp, không chuẩn bị.

            Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, tháng 7/1940 Xứ ủy Nam bộ tổ chức hội nghị để nhận định tình hình thế giới, trong nước và chuẩn bị khởi nghĩa. Sau khi phân tích tình hình chung và thực tiễn diễn biến của tình hình Nam bộ, Xứ ủy quyết định công tác chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ để khởi nghĩa và cử người về xin ý kiến Trung ương. Từ cuối tháng 9/1940, khắp nơi ở Nam bộ, nhân dân khẩn trương chuẩn bị cho khởi nghĩa, cũng thời gian này, Xứ ủy Nam bộ lại họp hội nghị, sau khi phân tích tình hình chung và riêng của Nam bộ, Xứ ủy quyết định khởi nghĩa. Tháng 11/1940, Trung ương Đảng hội nghị lần thứ 7. Sau khi phân tích tình hình chung, Trung ương nhận thấy điều kiện cho phép khởi nghĩa ở Nam bộ chưa chín muồi, nên đã chỉ thị cho Xứ ủy Nam bộ ngừng cuộc khởi nghĩa. Nhưng đồng chí Phan Đăng Lưu dự hội nghị về không kịp nên lệnh của Trung ương chưa đến tay Xứ ủy Nam bộ, mặt khác do địch gài vào biết được bí mật của ta nên cuộc khởi nghĩa Nam bộ vẫn nổ ra vào ngày 22 rạng 23 tháng 11 năm 1940.

            Tại huyện Hóc Môn Gia Định, lực lượng địch ở đây có hai trung đội lính khố xanh đóng giữ, Huyện ủy Hóc Môn đã huy động lực lượng nghĩa quân của 4 tổng chia làm 4 cánh tiến đánh thị trấn Hóc Môn. Trong 4 cánh quân tham gia khởi nghĩa đánh vào đồn Hóc Môn trong đêm 22 rạng 23 tháng 11/1940 thì có 3 cánh lực lượng chủ yếu của mỗi cánh do người dân Củ Chi đảm nhiệm.

            + Cánh thứ nhất: Nghĩa quân gồm những người ở các xã Tân An Hội, Tân Thông Hội, Tân Phú Trung, Phước Hiệp, Thái Mỹ, Trung Lập, Phước Vĩnh An, cánh này có khoảng 80 tự vệ và hàng ngàn quần chúng được vũ trang bằng giáo mác, gậy, tầm vông vạt nhọn, do đồng chí Nguyễn Văn Sáng Bí thư Huyện ủy Hóc Môn trực tiếp lãnh đạo và đồng chí Chín Bĩnh, chỉ huy quân sự đã chiếm nhà làm việc, giết gọn một tốp lính ở Tân Phú Trung, thu 4 súng và thiêu hủy hoàn toàn sổ sách của bọn tề xã. Một tốp lính đi tuần tiễu đến gần Cầu Bông thì bị nghĩa quân chặn lại, tước đoạt vũ khí, tên đội trưởng ngoan cố chống lại thì bị nghĩa quân giết chết. Tên chủ đồn điền cao su Cầu Khởi là Arnaud đi từ Sài gòn về Tây Ninh đã bị nghĩa quân chặn lại, tên này ngoan cố chống lại cũng bị nghĩa quân giết chết luôn.

            + Cánh thứ hai: Nghĩa quân thuộc các xã Bình Lý, Tân Mỹ, Nhị Bình, An Phú xã Mỹ Bình, Đông Thạnh, cánh này do đồng chí Năm Cội Huyện ủy viên chỉ huy, quần chúng được chia làm nhiều tốp để đi bao vây chiếm các đồn, bót lẻ tẻ. Một bộ phận vây đồn Rạch Tre, hoảng sợ trước khí thế của quần chúng nhân dân, bọn tề xã và binh lính địch đã bỏ chạy.

            + Cánh thứ ba: Gồm các xã Tân Thới Nhì, Tân Thới Tam, Tân Thới Tứ, Tân Hiệp, Tân Xuân, Tân Thới Sơn làm nhiệm vụ hậu cần, hỗ trợ và tải thương.
            + Cánh thứ tư: Gồm các xã: Tân Thạnh Đông, Tân Thạnh Tây, Nhuận Đức, An Nhơn Tây, Phú Mỹ Hưng có hơn 100 tự vệ và 800 quần chúng do đồng chí Đỗ Văn Dậy Huyện ủy viên chỉ huy trưởng và đồng chí Lê Bình Đẳng làm chỉ huy phó. Cánh này vì ở xa nên xuống chậm. Khi tới Phú Hòa Đông nghe tin khởi nghĩa đã nổ, nên dừng lại chờ liên lạc. Do đó không tham gia khởi nghĩa. Riêng đồng chí Đỗ Văn Dậy vẫn tiến về thị trấn.

            Gần 12 giờ đêm ngày 22/11/1940, nghĩa quân từ các phía tiến về thị trấn Hóc Môn, bao vây và tiêu diệt các bót xung quanh, được quần chúng nhân dân ủng hộ, nên nghĩa quân đã nhanh chóng triển khai tiêu diệt được ngay bọn địch, làm chủ thị trấn. Chỉ còn một vài tên chỉ huy cùng tên quận trưởng Thọ, đã ngoan cố chống lại, bọn chúng chạy lên tháp cao rồi dùng súng máy bắn tỉa lại. Đồng chí Đỗ Văn

Dậy một mình leo lên ống máng để đánh địch nhưng không may, đồng chí Dậy đã bị trúng đạn hy sinh, cuộc chiến đấu tiếp tục diễn ra đến gần 4 giờ sáng. Được tin Hóc Môn thất thủ, bọn giặc từ Sài gòn đã điều 2 cánh quân:  một từ Thủ Dầu Một sang, một cánh từ Bà Chiểu lên, nghĩa quân đã chiến đấu rất anh dũng.

            Vì lực lượng địch đông, lại được trang bị súng ống nhiều, nên nghĩa quân đã phải rút khỏi thị trấn. Lực lượng quần chúng thì nhanh chóng phân tán về các xã, còn lực lượng vũ trang thì chia ra nhiều cánh để phân  tán rồi hợp điểm tại Đức Lập (Đức Hòa) sau đó chia làm hai cánh, một cánh về hoạt động ở vùng Mốp Xanh, Đồng Tháp Mười, còn một cánh nữa rút về tại Củ Chi trên 70 nghĩa quân với 30 khẩu súng ở rừng Bàu Cúc, Bàu Kinh (Nhuận Đức- Phú Hòa Đông) trong số đó có các đồng chí ở Củ Chi như: Chín Bĩnh chỉ huy lực lượng võ trang, Năm Trọc, Lê Bình Đẳng, Ba Thơi...  ở đây hàng ngày tập dượt và được bà con vùng này tiếp tế cơm gạo, đóng lại 3 ngày. Sau đó lên vùng Bàu Đồn, Truông Mít (Dương Minh Châu). Mặc dù bị địch truy lùng, nhưng được sự che chở của nhân dân vùng này nên nghĩa quân vẫn tồn tại; những người trong cánh quân này về sau là nòng cốt xây dựng thành giải phóng quân liên quận (Hóc Môn- Bà Điểm- Đức Hòa).

            Sau cuộc khởi nghĩa ở Nam kỳ lúc này, bọn thực dân Pháp ở Nam bộ đã thẳng tay khủng bố nhân dân. Tại các xã Bình Lý- Tân Mỹ, địch cho xe thiết giáp và xe nhà binh xông vào càn quét, binh lính địch lùng sục cướp bóc, đốt nhà, chúng bắn giết đồng bào không phân biệt già trẻ, hãm hiếp phụ nữ. Đáng nguyền rủa nhất là cuộc tàn sát trả thù của giặc ở Tân Phú Trung nơi mà chúng cho là trọng tâm của cộng sản. Chúng cho xe tăng và binh lính bao vây chặt làng, rồi cho máy bay mang bom đến dội uy hiếp. Sau đó chúng cho quân đi càn, thực hiện chính sách đốt sạch, phá sạch ấp Bến Đò, xã Tân Phú Trung, Củ Chi. Người dân ở đây luôn khắc sâu mối thù này.

            Lợi dụng cuộc khởi nghĩa Nam kỳ, thực dân Pháp đã không từ một thủ đoạn nào để khủng bố cán bộ, đảng viên và nhân dân Củ Chi. Chúng lập trường bắn công khai đem cán bộ, đảng viên ta ra giết hại. Nhưng tinh thần hy sinh anh dũng của cán bộ đảng viên đã tiếp sức cho những người còn sống vùng lên tiêu diệt kẻ thù, biết bao nhiêu chiến sĩ, cán bộ, đảng viên và nhân dân Củ Chi đã ngã xuống, nhưng tên tuổi của họ vẫn sống mãi trong lòng người dân Củ Chi hôm nay.

            Tình hình lúc này, cơ sở ta bị đánh phá ác liệt, nhiều nơi bị xóa trắng. Để duy trì tiếng nói của Đảng đến quần chúng đồng chí Lưu Minh Châu- tỉnh ủy viên, được cử về xã Bình Lý (Củ Chi) để bàn việc khôi phục lại cơ sở. Cuộc khởi nghĩa của Củ Chi ngày 23/11/1940 tuy bị thất bại nhưng đó là lần tập dượt nhằm nâng cao sức chiến đấu của nhân dân Củ Chi dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Hóc Môn, để bước vào một cao trào cách mạng mới, cao trào khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền tháng 8/1945.

            Sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Củ Chi có lắng xuống một thời gian, cơ sở Đảng bị tổn thất nặng nề, cán bộ đảng viên và quần chúng trung kiên lớp thì bị giết hại, lớp thì bị bắt, đưa đi tù đày nhưng chỉ sau chưa đầy một năm cơ sở Đảng ở Củ Chi lại được gây dựng lại đầu năm 1944, các chi bộ mới ở các xã: Thái Mỹ, Trung Lập, Tân Mỹ, Nhuận Đức, được thành lập.               Trên cơ sở ra đời của các chi bộ, ở các xã ta thành lập một Ban Huyện ủy mới để lãnh đạo phong trào.

Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Ngày  15/8/1945 Nhật đầu hàng đồng minh, ngày 19/8/1945, Hà Nội khởi nghĩa cướp chính quyền về tay nhân dân, những ngày này khí thế đấu tranh cách mạng ở Củ Chi bốc cao hừng hực. Ngày 23/8/1945 khởi nghĩa thắng lợi ở Tân An, lúc này lực lượng thanh niên cứu quốc và tiền phong, cùng toàn dân đồng loạt đứng dậy kéo biểu tình khắp các xã trong huyện. Hoảng sợ trước khi thế của quần chúng, một số xã ở Củ Chi như Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây, Trung Lập, Nhuận Đức, chính quyền tay sai bỏ chạy, lực lượng khởi nghĩa tiến vào giành lấy chính quyền, nhân dân xã Phước Vĩnh An xông vào đồn giựt súng Nhật đem trang bị cho lực lượng ta. Tại Bến Mương, một số chị em phụ nữ vào đồn, dùng lý lẽ hơn thiệt buộc Nhật nộp súng. Nhìn chung các xã của Củ Chi đều giành được chính quyền trước ngày 24/8/1945.

            Sau đó nhân dân Thành phố dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành chính quyền ở Sài gòn ngày 25/8/1945. Việc giành chính quyền về tay nhân dân ở Củ Chi do lực lượng thanh niên cứu quốc và thanh niên tiền phong kết hợp với nhau cùng quần chúng đứng lên giành thắng lợi. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, Huyện ủy Hóc Môn được củng cố lại, đồng chí Năm Oắn được cử làm Bí thư Huyện ủy và đồng chí Nguyễn Văn Thức (Tám Thức) được cử làm Chủ tịch ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời của Huyện.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám ở Củ Chi là kết quả đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân Củ Chi dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã đưa người dân Củ Chi từ thân phận nô lệ chịu 3 tầng áp bức bóc lột, nay trở thành người dân một nước độc lập có chủ quyền. Thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 ở Củ Chi là quá trình xây dựng, củng cố và phát triển của Đảng bộ Củ Chi, nó đã mở ra một trang sử mới làm tiền đề vững chắc cho những bước đi kế tiếp của Đảng bộ và nhân dân Củ Chi trong đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc.

III. Củ Chi trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954)

            Cách mạng Tháng Tám thành công với nhiều thuận lợi những cũng đầy dẫy khó khăn và phức tạp. Cách mạng Việt Nam với vị trí quan trọng ở Đông Nam á bị chủ nghĩa đế quốc chống phá quyết liệt ngay từ đầu. Thực dân Pháp được sự giúp đỡ của quân đội Anh đã ngang nhiên gây hấn ở Nam bộ. Đêm 22 rạng ngày 23/9/1945 quân Pháp dựa vào quân Anh phát động cuộc đánh chiếm Sài gòn.
Mọi cố gắng nhân nhượng hòa hoãn không còn nữa. Nhân dân ta chỉ còn con đường đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Nơi nào quân Pháp nổ súng đánh chiếm đều bị ta chống trả quyết liệt.

            Ngay sáng 23/9/1945 một cuộc họi nghị được triệu tập. Hội nghị đã phân tích, đánh giá tình hình, so sánh lực lượng địch ta. Sau cùng, Hội nghị quyết định đồng thời với việc gởi điện báo gấp ra Trung ương và Hồ Chủ tịch xin chỉ thị, phát động nhân dân kháng chiến và trên thực tế nhân dân đã đứng lên sử dụng bạo lực để chống quân xâm lược. Hội nghị thành lập ủy ban kháng chiến Nam bộ do Trần Văn Giàu làm chủ tịch. Ngay chiều ngày 23/9, ủy ban kháng chiến Nam bộ ra Tuyên cáo quốc dân: "Đồng bào Nam bộ! ...
            Vì coi quân Anh là đại biểu của đồng minh tới đất nước chúng ta giải giáp quân Nhật để đem lại hòa bình cho dân chúng Đông Dương, nên chúng tôi ủy ban nhân dân Nam bộ luôn giúp cho quân đội Anh làm nhiệm vụ được dễ dàng. Mặc dù có nhiều điều bất mãn, chúng tôi đã nhiều lần kêu gọi quốc dân nên nén lòng căm giận để chờ đợi cuộc vận động ngoại giao với đồng minh trên trường quốc tế. Nhưng do sự nhân nhượng và dung túng của quân Anh, bọn thực dân Pháp đã làm nhiều điều quá đáng.
            Đêm 22/9, chúng cùng với quân đội Anh chiếm Sở Bưu điệm và Sở cảnh sát. Sáng hôm 23/9, quân Pháp công nhiên chiếm trụ sở ủy ban hành chính Nam bộ và Quốc gia tự vệ cuộc. Chúng đã gây nhiều cuộc đỗ máu ở đường phố Sài gòn. Rõ ràng là quân đội Anh đã làm trái với trách nhiệm mà đồng minh ủy thác cho họ.

            . . . Không lẽ chịu nhục hoài, vì danh dự của dân tộc chúng ta coi trọng quyền lợi của quốc gia, nên chúng tôi phải đánh điện ra Trung ương xin phép cho kháng chiến.

            Chúng tôi đã:

1- Lập ủy ban kháng chiến để lo việc quân sự.

2- hạ lệnh tổng đình công và bất hợp tác với địch.

3- Truyền đi lục tỉnh thi hành phá hoại đường giao thông phong tỏa việc chuyển vận tiếp tế để bao vây địch.

4- Kêu gọi đồng bào tố cáo bọn Việt gian nguy hiểm.

            Đồng bào thân mến!

            Cương quyết phấn đấn, toàn dân hãy đoàn kết để bảo vệ quốc gia".

            Theo lệnh của ủy ban kháng chiến Nam bộ, nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định lập tức tổng bãi công, bãi khóa, bãi thị, tản cư ra khỏi thành phố, triệt phá các đường tiếp tế lương thực của địch. Nhân dân Thành phố thực hiện bất hợp tác với giặc: Tất cả các cở, nhà máy, hiệu buôn, chợ búa đều đóng cửa. Các nhà máy điện, máy nước đều bị phá. Các đơnv ị tự vệ có sự hỗ trợ của học sinh, sinh viên... đắp ụ chiến đấu chặn địch trên các ngả đường. Cuộc chiến đấu của nhân dân Thành phố được Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng tán thành và kêu gọi cả nước hỗ trợ.

            Hưởng ứng lời kêu gọi của Xứ ủy Nam bộ, thực hiện chủ trương của tỉnh ủy Gia Định. Với sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy Hóc Môn, quân và dân Củ Chi ngay từ những ngày đầu kháng chiến đã nhanh chóng bắt tay vào công việc chuẩn bị một cách khẩn trương. Chi bộ Đảng ở các xã được kiện toàn, các tổ chức quần chúng được xây dựng và sắp xếp lại cho phù hợp với yêu cầu mới. Các đội du kích được gấp rút chấn chỉnh, thanh niên các xã nô nức tình nguyện vào du kích, những xã có chi bộ và du kích mạnh ở khu Năm như: Phú Mỹ Hưng, Trung Lập, An Nhơn Tây, Nhuận Đức, Phước Vĩnh An. Chỉ trong vòng nửa tháng tất cả các xã của Củ Chi đều lập nên ủy ban nhân dân bên cạnh ủy ban Mặt trận Việt Minh.

            Cho đến tháng 10/1945 thực dân Pháp vẫn chưa triển khai đóng quân được ở các thị trấn, mà vẫn nằm trong Sài gòn và Gia Định. Qua thực tiễn chiến đấu, một vấn đề đặt ra buộc quân và dân Nam bộ phải giải quyết. Đó là vấn đề xây dựng căn cứ kháng chiến. Căn cứ kháng chiến là trung tâm quân sự, chính trị của một tỉnh hay của một huyện. Thực hiện chủ trương xây dựng căn cứ kháng chiến của tỉnh ủy, huyện ủy Hóc Môn chọn Tân Mỹ và Bình Lý (nay là Bình Mỹ thuộc huyện Củ Chi) làm căn cứ kháng chiến của Huyện và tỉnh.

Sáng tháng 11/1945, thực dân Pháp bắt đầu lấn chiếm vùng ngoại ô Sài gòn Gia Định. Chúng đóng đồn bót ở thị trấn và đường giao thông quan trọng, các cầu lớn. Chúng còn liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét với quy mô lớn. Bước vào thời gian này, căn cứ kháng chiến của Huyện đóng ở Bình Lý, Tân Mỹ cũng bị giặc càn quét dữ dội.

            Ngày 20/12/1945, một tiểu đoàn giặc Pháp đổ bộ tại cầu Bến Mương, chúng tìm cách tiến vào Phú Hòa Đông, móc nối với Việt gian xây dựng nhiều tua gác nằm trên trục lộ 15, giao cho bọn bán nước trú đóng, canh gác và kiểm soát.

            Trong tình hình giặc đánh phá, càn quét thường xuyên thì các lực lượng vũ trang không phải do Đảng lãnh đạo như bộ phận của Đệ tam sư đoàn, Đệ tứ sư đoàn, Hát-tê-OảhNốp, Bùi Thế Phiệt.. lại lần lượt rút lui. Các lực lượng vũ trang của quần chúng nhân dân do Đảng lãnh đạo mặc dù mới thành lập, thiếu kinh nghiệm chiến đấu, thiếu vũ khí, nhưng vẫn kiên trì chiến đấu kềm chân kẻ thù. Lúc này trên chiến trường Củ Chi, ngoài lực lượng địa phương ra còn có lực lượng vũ trang giải phóng quân liên quận Hóc Môh Bà Điểm- Đức Hòa cùng hoạt động trên địa bàn huyện. Cuộc chiến đấu dũng cảm của lực lượng võ trang ở đây đã làm cho nhân dân hết sức tin yêu.
            Cuối năm 1945, về mặt quân sự, thực hiện chủ trương của Xứ ủy Nam bộ, tỉnh Gia Định đã xây dựng hoàn chỉnh lực lượng vũ trang địa phương. Đầu năm 1946 đã hình thành 3 thứ quân trong tỉnh là: Vệ quốc đoàn (tức bộ đội chủ lực), tự vệ chiến đấu (tức bộ đội địa phương) và nhân dân du kích.

            Chiến tranh nhân dân và chiến tranh du kích của tỉnh đã từng bước hình thành và phát triển trong 1946, nhiều trận chiến đấu của lực lượng vũ trang do Đảng lãnh đạo đã thu được những thành tích lớn, đã cổ vũ và động viên nhân dân tích cực kháng chiến. Tiêu biểu là khi giặc Pháp đem quân tiến ra ngoại ô Sài gòn vùng Hóc Môn - Củ Chi, thì bị lực lượng cách mạng trong đó đa số là người dân Củ Chi đã chặn đánh chúng tại cầu Tham Lương, gây cho địch thiệt hại rất nặng nề. Đồng thời tại Củ Chi lực lượng cách mạng cùng quần chúng địa phương đẩy mạnh hoạt động phá hoại bằng cách đào đường, cắt một số lô cao su ven quốc lộ 22, để cản trở lưu thông, gây khó khăn cho địch, không trở lại đóng đồn bót được nữa, cho nên mấy tháng đầu năm 1946 tuy mở rộng càn quét, nhưng thực dân Pháp vẫn chưa đóng đồn bót được. ở các xã An Nhơn Tây, Phú Mỹ Hưng, Nhuận Đức . . . Thời kỳ này giặc thường mở các cuộc càn quét những xã, ở về phía Nam Huyện và một số xã ven quốc lộ, cụ thể như: bắn giết, đốt phá ở xã Tân Thông Hội.

            Đầu năm 1946 tỉnh thành lập ủy ban kháng chiến, Huyện có ủy ban nhân dân và Mặt trận Việt Minh, ở Hóc Môn ủy ban kháng chiến Hóc Môn chia huyện Hóc Môn ra làm 5 khu vực quân sự. Mỗi khu vực có Ban chỉ huy quân sự khu. Khu 4, khu 5 của Hóc Môn ngày đó là phần đất huyện Củ Chi ngày nay. Bước vào năm 1946 có thể nói đây là thời kỳ chuẩn bị xây dựng và củng cố lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài.

            Để có đủ vũ khí đánh giặc, các lò rèn của Huyện đều chuyển sang sản xuất vũ khí thô sơ như: dao, mác, tên. . . với việc chấn chỉnh và củng cố lực lượng vũ trang của huyện, là một bước phát triển mới của cuộc kháng chiến. Qua thực tế chiến đấu, lực lượng vũ trang Huyện đã chặn đứng được nhiều trận càn của địch. Như tại căn cứ Bình Lý, Tân Mỹ trong mấy tháng đầu năm 1946 địch mở nhiều trận càn quét, nhưng mỗi lần vào là giặc lại phải bỏ lại nhiều xác chết. Cầu Rạch Tra trên con sông Sài gòn, cửa ngõ đi vào Bình Lý, Tân Mỹ bị dân quân ta phá sập.

            Trong tình hình quần chúng chưa được ổn định lắm, thì có bộ đội vũ trang của anh em Lý Huê Phương và Lý Huê Vinh, Hồng Tảo và Bình Xuyên, có trang bị súng ống kéo về đ1ong quân từ Phước Vĩnh An lên Nhuận Đức, An Nhơn Tây và Phú Mỹ Hưng. Loại bộ đội này sản sinh trong tình hình Nhật đảo chánh Pháp.

            Đặc biệt là bộ đội Hồng Tảo và bộ đội của hai anh em Lý Huê Vinh, Lý Huê Phương hằng ngày chuyên lo khủng bố, cướp của đồng bào chỉ cần một tờ giấy bạc lớn, chúng đi mua heo, trâu, bò từ ấp này qua xóm khác,  giấy bạc ấy vẫn còn. Thủ đoạn lừa phỉnh là khi chủ nhà không có tiền thối, chúng giựt luôn. Bọn Hồng Tảo giết người một cách dã man, bằng thủ đoạn chôn sống người rồi lấy cuốc giẫy cổ. Hành động khủng bố giết người của hai loại bộ đội phi vô sản trên đây, đã gây nhiều căm hờn, oán ghét trong quần chúng.

            Ngày 30/5/1946 vào lúc 22 giờ đêm, tên Việt gian ác ôn Bắc Đông dẫn 1 tiểu đội lính Pháp vào tại xóm Voi Đá ấp Gót Chàng (xã An Nhơn Tây) đốt nhà anh Thể và bắt anh em Dương Văn Thể, Dương Văn Thưởng. Chúng đưa 2 anh em về bót tra tấn, đánh đập. Riêng anh Thể chúng đánh gẫy cả tay chân, buộc anh phải chỉ hầm súng, nhưng anh khôngmột lời khai báo. Chúng đem anh trói vào thân cây và bắn tại ấp Bến Mương. Còn anh Thưởng trong khi anh Hai Thể bị đánh đập tàn nhẫn, đứng bên cạnh lòng anh sôi sục, căm thù, dù hai tay bị còng nhưng anh cố dùng hết sức mạnh xốc tới đánh tên sĩ quan Pháp, bọn chúng lôi anh ra cầu tàu chặt cổ, lấy đầu đem bêu trên đường 15 ấp Bến Mương. Sau đó được một số nông dân lấy xác đem về chôn tại ấp Gót Chàng. Gương hy sinh anh dũng của 2 anh làm cho đồng bào ở đây vô cùng thương tiếc và càng căm thù giặc tàn ác.
            Tháng 6/1946, tuy lực lượng vũ trang chưa đủ mạnh nhưng để đối phó với tình hình hỗn độn phức tạp trên đây của đơn vị Hồng Tảo và Lý Huê Vinh. Ban quân sự lực lượng vũ trang cách mạng của ta cùng lực lượng giải phóng quân liên quận "Bà Điểm- Hóc Môn - Đức Hòa" tổ chức tước khi giới bọn này. Đúng 12 giờ trưa ngày 8/6/1946 tại vùng Trảng Xếp, bàu Đưng xã An Nhơn Tây bộ đội ta bất ngờ bao vây tước vũ khí, thuyết phục Lý Huê Phương buộc chúng phải đầu hàng. Chúng có liên lạc với bọn Nhật ở Tây Ninh để nhận đường rút lui của bộ đội ta, nhưng đã bị thất bại. Được tin này, đồng bào ta rất vui mừng, phấn khổi thấy được loại bộ đội trá hình "đầu trộm, đuôi cướp" đã bị tiêu tan.

            Để có đủ sức lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhând ân trong tỉnh, khoảng tháng 9 năm 1946 một cuộc họp giữa các đồng chí có trách nhiệm trong tỉnh được tổ chức tại Tân Thới Hiệp, có đại biểu cấp trên về dự, đã bầu được Ban Chấp hành Đảng bộ thống nhất gồm 11 đồng chí do đồng chí Phạm Văn Chiêu làm Bí thư kiêm Chủ tịch tỉnh Gia Định.

            Về cuối năm, lực lượng vũ trang của Huyện càng hoạt động sôi nổi hơn, đã gây cho địch nhiều thiệt hại đáng kể, du kích đánh chiếm đồn Phước Vĩnh An và một số nơi khác. Nổi bật nhất là ngày 24/11/1946, một đại đội của chi đội 6 tỉnh Gia Định, phối hợp cùng lực lượng địa phương chặn đánh địch tại ấp Ràng xã Trung Lập, đã tiêu diệt gần 100 tên, đốt cháy nhiều xe nhà binh. Chiến thắng của quân dân ta ở trận Ràng có nhiều tiếng vang lớn, đã gây được lòng tin tưởng vào chiến thắng của nhân dân và cán bộ.

            Thời gian này, mặc dù Pháp về đóng tại Củ Chi nhưng ở các xã, đều tổ chức được đội vũ trang tuyên truyền để chặn các cuộc càn quét của địch, đồng thời rải truyền đơn, treo biểu ngữ, giải thích cho nhân dân hiểu dã tâm của thực dân Pháp muốn chiếm đất nước ta một lần nữa.

            Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ thống nhất, quân và dân Gia Định đã thu được nhiều thắng lợi mới, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trải qua một năm chiến đấu, quân và dân Củ Chi đã nhận thức được những vấn đề cơ bản của cuộc kháng chiến để cùng quân và dân cả nước bước vào kháng chiến toàn quốc.

            Thực dân Pháp phản bội không thi hành thỏa hiệp 14/9. Trước tình hình đó thay mặt Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến toàn Đảng, toàn dân, toàn dan ta đi vào cuộc kháng chiến với niềm tin tất thắng.

            Bước sang năm 1947, thực dân Pháp thấy rằng chúng không thể bình định Nam bộ mà chúng đã từng huênh hoang tuyên bố như trước được, nên chúng phải chuyển hướng chiến lược từ tốc chiến, tốc thắng sang đánh lâu dài, cũng từ năm 1947, thực dân Pháp thực hiện âm mưu "dùng người Việt đánh người Việt", "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh". Do đó, chúng tăng cường đôn quân bắt lính và mở những cuộc hành quân để cướp bóc tài sản của nhân dân ta. Nhìn chung toàn bộ chiến trường Gia Định bước sang năm 1947 có ác liệt hơn năm 1946. Cuộc chiến đấu của quân dân Củ Chi trong thời kỳ này càng trở nên quyết liệt. Vào tháng 2/1947, ta tổ chức trận Binh La ở Phú Hòa Đông, chỉ huy trưởng là ông Nguyễn Văn Khạ, chính trị viên Mặt trận là ông út Nữa (Trần Văn Nữa), liên lạc Mặt trận ông Lê Văn Trước.

            Khoảng 11 giờ đêm, khi trăng vừa lặn tiếng súng lệnh tấn công bắt đầu, nhân dân trong xã đồng loạt đốt ống lói, đánh thùng gõ mõ vang trời, ngay tại thành Thầy Biên, lực lượng 600 thanh niên đã được trang bị dao găm, tầm vông vạt nhọn sáng đá và bành mủ để chắn đạn, mai phục sẵn đột kích vào đồn. Cùng lúc 25 xe bò rơm được đẩy vào để chặn lối ra của giặc và sẵn sàng phát hỏa (trong trận này ta có hợp đồng với trên để hỗ trợ lực lượng), nhưng chờ đến quá giờ, ông Khạ quyết định hành động). Kết quả là giặc hết sức hoang mang không biết được mặt trận chính ở đâu, chúng chạy loạn xạ, một số thoát ra cổng đồn chạy về phía "Nhà việc", trong đêm tưởng lầm hạ sát lẫn nhau, gây thiệt mạng 29 tên Pháp. Trong trận đánh ta có dùng mưu để ly gián địch. Ông Nguyễn Văn Chạy lúc đó làm hương hào, với tinh thần chưa dứt khoát ngã ngũ theo ai, trong lúc đẩy ra rơm vào, ta kết hợp hô to: "Tiến vô, bớ hào Chạy" sáng ra ông theo cách mạng luôn. Đặc biệt trongtrận đánh này xã Phú Hòa Đông được giấy khen của Trung tướng Nguyễn Bình, được nhân điển hình cho các xã khác học tập. Về sau, ông Nguyễn Văn Khạ bị Cao đài bắt, chúng đem xử bắn, đứng trên sạp bán thịt được chồng cao trước chợ Phú Hòa Đông ông dõng dạt hô to:

"Đả đảo Cao đài phản động,

Hồ Chí Minh muôn năm"

            Khí phách hiên ngang của ông Khạ đã làm cho nhân dân ở đây vô cùng cảm phục và họ thầm hứa với nhau theo gương ông chống giặc. ậ Củ Chi lúc này, vùng du kích được phát triển nên cuộc tranh chấp giữa ta và địch đã diễn ra ác liệt. Về phía địch, chúng cố gắng mở rộng vùng kiểm soát, còn về phía ta thì cố gắng giữ vững và phát triển vùng giải phóng ở Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây, Trung Lập . . . Để tạo nên thế chính trị mới cho cuộc chiến đấu, lực lượng vũ trang ở các xã đã phát triển như: Phú Hòa Đông, An Nhơn tây, Phước Vĩnh An đều có một trung đội tại chỗ được trang bị súng tịch thu được của Pháp và súng th6o sơ tự tạo. Đặc biệt, ở Phước Vĩnh An, nhân dân tìm mua súng về trang bị cho du kích, nên lực lượng vũ trang tại đây được trang bị vũ khí rất mạnh.

            Năm 1947, cũng xuất hiện nhiều gương gan dạ, dũng cảm đã dùng rựa chặt đầu giặc Pháp, ở Phú Hòa Đông, ông Nguyễn Văn Trinh phục kích chém đứt đầu một thằng Pháp sau khi đã hãm phụ nữ trên đường về. Ông Nguyễn Văn Đãng nghe bà con báo cáo có hai thằng Pháp đI bộ về phía cầu Bến Nẫy, ông phục kích chém đứt đầu một thằng, còn một thằng trong khi ông đang vật lộn thì có xe Pháp chạy đến, chúng bao vây bắt được ông. Chúng đem ông xử bắn. Trước khi chết ông Đẵng hô to “Tao chết nhưng con cháu tao vẫn giành được độc lập”.

Một gương khác cũng rất dũng cảm, dưới sự móc nối liên lạc với ta, một người dân Củ Chi làm bồi cho Tây ở bót Bến Mương thừa cơ hội bỏ thuốc độc vào cà phê giết chết một số lính Pháp, còn lại một số tên gác bên ngoài phát hiện, chống lại, nhưng ta đã tổ chức cho rút lui một cách an toàn.

            Phong trào địch vận ở Củ Chi cũng xuất hiện khá sớm. Nhiều binh lính địch phản chiến, trong đó điển hình nhất là vụ một tốp lính lê dương người Đức phản chiến theo ta bắt tên Cò Thôi đã mưu trí tổ chức đột nhập vào trại Phờ-răng-xi-ni bọn lính Pháp trong đồn xếp 2 hàng, thành giàn chào theo nghi thức nhà binh. Sau khi vào được trong trại, ta liền nổ súng hạ được nhiều tên Pháp ở đây.

Thực hiện chủ trương của tỉnh ủy, để có đủ sức mạnh lãnh đạo cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi, Huyện ủy Hóc Môn coi công tác phát triển và củng cố cơ sở Đảng là một công tác quan trọng trong năm 1947, Huyện ủy chủ trương mở nhiều đợt thi đua phát triển đảng viên. Cuộc chiến đấu của quân dân Củ Chi diễn ra ngày càng ác liệt thì trong quần chúng lại xuất hiện nhiều người xứng đáng được đứng vào đội ngũ của Đảng.

            Do thực hiện đúng đắn chủ trương của tỉnh ủy về công tác củng cố và phát triển Đảng, nên cuối năm 1948, hầu hết các xã của Củ Chi đều có chi bộ Đảng. Số lượng đảng viên của mỗi chi bộ cũng tăng nhanh. So với năm 1946 thì số lượng đảng viên trong toàn huyện tăng gấp 2 lần. Nhìn chung, công tác phát triển và củng cố cơ sở Đảng ở Củ Chi trong thời kỳ này được tiến hành một cách thuận lợi. Song song với công tác phát triển đảng viên, là công tác bồi dưỡng đảng viên. Thời kỳ này, Huyện ủy thường xuyên mở những lớp lý luận ngắn ngày, hay cử cán bộ về tỉnh dự các lớp huấn luyện dài ngày để bồi dưỡng, lý luận cách mạng cho cán bộ đảng viên cơ sở. Vừa học tập vừa tham gia thực tiễn đấu tranh cách mạng mà nhận thức của cán bộ, đảng viên trong huyện ngày một nâng cao.

            Cùng với công tác xây dựng và củng cố cơ sở Đảng, Huyện ủy còn chú trọng kiện toàn các tổ chức quần chúng. Năm 1947, thành lập Mặt trận Việt Minh. Mặt trận Việt Minh ra đời đã động viên và tập hợp được nhiều tầng lớp nhând ân Củ Chi tham gia hoạt động cách mạng. Mặt trận Việt Minh thực sự đã phát huy đầy đủ sức mạnh của nhân dân Củ Chi trong kháng chiến. Bên cạnh Mặt trận Việt minh huyện còn tổ chức sắp xếp lại nông hội, thanh niên, phụ nữ, để phát huy sức mạnh tổng hợp trong kháng chiến.

            Năm 1947, quân dân Củ Chi lập được nhiều thành tích chống càn. Thắng lợi về quân sự thời gian này đã thúc đẩy phong trào chiến tranh du kích của huyện ngày càng phát triển. Lực lượng du kích ở các xã: Tân An Hội, Tân Phú Trung, Phước Vĩnh An ngày càng lớn mạnh. Thanh niên các xã này hăng hái tình nguyện vào bộ đội.

            Sang năm 1948, hầu hết các xã của Củ Chi đều có du kích. Lực lượng du kích đã làm tốt công tác chiến đấu, giữ gìn xóm làng. Thời kỳ này cũng là thời kỳ hình thành và xây dựng 3 thứ quân. Vào giữa năm 1948, giặc Pháp và bọn Việt gian mở trận càn lớn vào xã An Nhơn Tây quân số lên đến một trung đoàn, có máy bay, tàu chiến hỗ trợ. Trước khi vào xã chúng bắn pháo dữ dội để dọn đường vào các ấp Bến Mương, Chợ Cũ, Xóm Chùa, hàng trăm nhà bị đốt, nhiều trâu, bò, gà, vịt bị giết hại. Khi phát hiện được hầm lúa của đồng bào, lớp thì cướp đem xuống tàu, lớp khác đốt phá. Chúng bắt 11 ông già, bà lão đem lên đường 15 bắn chết. Hành động dã man, giết người thô bạo của bọn Pháp và Việt gian ở đây đã gây căm phẫn lớn trong nhân dân.

            Trong năm 1948, lực lượng địa phương đã kết hợp với bộ đội chủ lực do đồng chí Tô Ký chỉ huy đánh đồn Bà Hộ. Pháp đóng ở đây một trung đội, ta tấn công tiêu diệt ổ đề kháng cuối cùng của chúng, đốt cháy nhà máy xay lúa của tên địa chủ Trần Thị Huấn, diệt 30 tên giặc Pháp, đồng chí ba Ta một đảng viên của ta đã hy sinh.

Những trận phục kích và công đồn ngày càng nhiều, làm cho nhân dân ta tin tưởng vào khả năng đánh thắng của bộ đội cụ Hồ đi từ cây tầm vông vạt nhọn.

            Tháng 12/1948, với tình hình vũ khí còn hạn chế, phong trào tạo vũ khí đánh Pháp xuất hiện đều khắp trong huyện tại xã Phú Hòa Đông, đồng chí Lê Văn Trước được cử đến Hóc Môn để học tập cách chế tạo súng và về thành lập tổ chế tạo vũ khí thô sơ của xã. Đầu tiên tổ làm lễ ra mắt đồng bào 2 cây súng múc chế theo kiểu Anh, bà con tin tưởng, đóng góp đồng, lư, thau để cung cấp cho tổ, tổ đã chế tạo được 35 súng theo kiểu múc Anh trang bị cho du kích. Sáu súng ngựa bay (côn 12) để trang bị cho cấp chỉ huy, 50 súng Côn-on (loại súng bắn 1 viên để ám sát, bắn bằng đạn múc Anh), 7 cây Mi-tin và 10 Mi-mát. Cùng lúc đó phong trào tự tạo vũ khí thô sơ cũng phát triển các xã Phước Vĩnh An, Nhuận Đức, Phú Mỹ Hưng. . .  Sau khi được trang bị vũ khí tự tạo, cộng với súng thu được của giặc, lực lượng vũ trang địa phương đẩy mạnh hoạt động quân sự, với hình thức bao vây, bắn tỉa, phục kích tiêu diệt, làm tiêu hao sinh lực và thu ngắn tầm hoạt động của địch.

            Vừa chiến đấu, người dân Củ Chi vừa sản xuất để bảo đảm hậu cần tại chỗ. Hưởng ứng lợi kêu gọi của Hồ Chủ tịch về xóa giặc dốt. Một phong trào “Bình dân học vụ” được dấy lên ở Củ Chi. Trẻ, già, trai, gái không phân biệt nam, nữ, người biết nhiều dạy người biết ít, ở vùng giải phóng đi đâu cũng học.  Học ở chợ, học ở nhà, học ở ngoài đồng. Nhờ vậy mà 90% người dân Củ Chi biết đọc, biết viết. Chỉ sau mấy tháng phát động phong trào, đã xóa xong nạn mù chữ.

            Cuối năm 1948, đến đầu năm 1949 đời sống của nhân dân Củ Chi tuy có thiếu thốn phần nào, dù giặc cố tâm phá hoại kinh tế của ta, nhưng đồng bào ở đây cũng không bị đói. Tuy đời sống vật chất có thiếu thốn, nhưng mỗi lần giặc càn vào đều bị du kích, bộ đội ta đánh trả quyết liệt, chúng bị ta làm tiêu hao sinh lực nặng nề. Làm cho địch, khi nghe đến một số địa danh của Củ Chi đều khiếp vía. Nhất là ở xã An Nhơn Tây bọn Việt gian trước khi tràn vào đều đốt nhang khấn vái trời phật hộ mạng. Còn du kích, bộ đội, đồng bào ta càng đánh giặc thắng lợi, càng hăng hái tham gia chiến đấu diệt địch. Hồi ấy có mấy câu thơ ca ngợi về Củ Chi như sau:

Củ Chi ơi! Chiến khu này,

Quân thù mà đến, quân thù tan thây,

Xóm Chùa, Chợ Cũ, Bến Mương,

Gót Chàng, Gò Nổi, đi qua Ba Sòng,

Xóm Trại, Xóm Mới, Bàu Đưng,

Nhiều tiếng vang lừng cả nước nghe danh...

            Sang năm 1949 địch ra sức phá hoại và bao vây kinh tế của ta. Chúng gom dân ra các trục lộ lớn và xây dựng nhiều tháp canh, đồn bót để bắt lính và kiểm soát nhân dân. Đồng thời chúng còn mở những cuộc hành quân càn quét nhằm vơ vét lương thực và bắn giết trâu bò của ta, phá hoại tư liệu sản xuất của người nông dân. Trong hai năm 1948-1949 thực dân Pháp đã giết hại hàng mấy nghìn con trâu, bò, của nhân dân Củ Chi. Không chịu để quân thù bắn giết súc vật một cách bừa bãi, nhân dân Củ Chi đã đứng lên đấu tranh trực diện với kẻ thù đòi chúng phải bồi thường số trâu, bò đã bị giết hại. Nhân dân ở đây còn hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng là bất hợp tác với địch, bao vây kinh tế địch.

            Nói đến phong trào dân quân Củ Chi là không thể nào quên thành tích cản sông Sài gòn trong chiến địch Lê Hồng Phong cuối năm 1949, ta chủ trương dùng mọi khả năng, phương tiện để cản sông Sài gòn tại bến Cây Ư, ấp Xóm Chùa, ngăn tàu giặc, góp phần cho thắng lợi của chiến dịch. Sau đợt phát động, có hàngngàn dân quân tham gia chặt cây, đóng cừ, chở đất, đá. Đồng bào xã An Nhơn Tây đã đóng góp hàng trăm chiếc ghe, chở đất đá rồi nhận chìm luôn để cản sông. Ông già, bà lão cùng với nam, nữ thanh niên tham gia lao động ngày đêm không mệt mỏi. Để bào đảm có đủ cây đóng cừ, bà con các ấp ở xa như Ba Sòng, Gò Nổi, Xóm Mới, Xóm Trại và nhân dân các xã lân cận. . . cũng hưởng ứng tham gia. Từng đoàn xe bò tới 30 chiếc kéo cừ đến ấp Xóm Chùa, phân công cho dân quân chặt cây, đóng cừ. Kẻ vác, người khiêng, thi đua hoàn thành nhiệm vụ. Chiến dịch mở màn, vùng Bến Cát, Dỗu Tiếng, Bến Súc. . . bị tấn công, hàng chục tàu chiến của giặc đến đây gặp phải chướng ngại cản sông Sài gòn, chúng phải mất thời gian cả ngày đánh phá mới vượt qua được.

            Nhìn chung toàn chiến trường Củ Chi. Từ tháng 9/1945 đến năm 1950, thực dân Pháp chưa hề kiểm soát được, mặc dù chúng có mở mộ số trận càn, nhưng quyền kiểm soát vẫn thuộc về phía cách mạng.

            Vào những năm từ 1948 đến 1950 chiến tranh du kích đã phát triển đều khắp ở Củ Chi. Do đó, vùng giải phóng được giữ vững an toàn, du kích các xã dọc theo các con đường lớn như: đường số 8, số 7, 15 và quốc lộ 22, thường xuyên phục kích đánh địch mỗi khi chúng đi càn.

            Cuộc sống của nhân dân vùng du kích vẫn được bảo đảm bình thường, báo chí cách mạng vẫn được nhân dân theo dõi thường xuyên. Điểm nổi bật của chiến tranh du kích ở Củ Chi thời kỳ này là địa đạo chiến. Năm 1947, đồng bào các xã Tân Phú Trung (ấp Phú Lợi, Giòng Sao), Tân An Hội, Phước vĩnh An (ở Cây Da, Bà Giả), An Nhơn Tây, Trung An vì không thể để cho địch bắt đi sau những cuộc hành quân gom dân. Nên đồng bào đã có sáng kiến đào những hầm bí mật cá nhân thành hầm bí mật liên gia, từ hầm bí mật liên gia phát triển thành những con đường hầm chạy dài từ xóm này sang xóm khác, với nhiều ngăn nhiều nếp và nhiều nắp, nhiều đường chạy dài trong lòng đất. Hầm có chỗ ẩn nấp cho lợn, gà, trâu, bò, đồng thời còn có những ổ chiến đấu cho du kích khi cần thiết chiến đấu. Nhờ có địa đạo mà khoảng tháng 7/1950, giặc mở một trận càn vào Tân Phú Trung với lực lượng là 5 tiểu đoàn càn quét trong vòng 15 ngày đêm, nhưng không hề bắt được một cán bộ nào, bọn chúng không giết được một người dân nào, mà ngược lại còn bị du kích chận đánh, cuối cùng chúng phải tháo lui. Tác dụng của địa đạo chiến làm cho phong trào đào địa đạo lan rộng ra các xã khác, nhất là các xã vùng cao. Cho đến năm 1950, chỉ tính riêng các xã: Tân Phú Trung, Phước Vĩnh An, An Nhơn Tây, Tân An Hội, đường địa đạo đã có trên 100 km chiều dài.

            Song song với phong trào đào địa đạo, còn có phong trào xây dựng xã, ấp chiến đấu như: Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây, Nhuận Đức, Phước Vĩnh An, Tân Phú Trung, được rào bọc kỹ càng bằng tre gai, mây, táo, dứa, hầm chông, hố chông và lựu đạn gài để chống càn. Ngoài đồng trống, nhân dân còn đóng cây tầm vông vạt nhọn cao, để chống địch nhảy dù.

            Ngoài ra, còn có phong trào làm hầm chông, hố chông của nhân dân Củ Chi đã làm cho thực dân Pháp khiếp vía mỗi khi chúng càn vào Củ Chi. Có thể nói từ đầu năm 1949 nhờ phong trào địa đạo, hầm chông, hố chông, xây dựng làng, ấp chiến đấu, mà phong trào du kích chiến tranh ở Củ Chi, bước sang một giai đoạn mới. Từ đây quân dân Củ Chi có thể chủ động đánh địch ở nhiều nơi và buộc địch ở thế bị động.

            Từ cuối năm 1950 đến đầu năm 1951, địch bắt đầu mở nhiều cuộc hành quân càn quét, bắn phá, giết hại đồng bào nhằm mở rộng vùng kiểm soát của chúng. Tiêu biểu nhất là trận bố sông Lưu, vào đêm 26 rạng ngày 27/1/1951 bọn Pháp kéo đến ấp Giữa, Xóm Đình, Cầu Nga, chúng lục xét, bắt bớ, đánh đập, bắn giết, cướp của một cách man rợ. Trong 7 ngày đêm bố ráp, sau khi rút đi, chúng còn bắn cối trở lại gây khó khăn cho đồng bào trong việc tìm kiếm hàng trăm người bị chúng giết hại. Sự tàn sát dã man này, đã gây lòng căm thù cao độ trong nhân dân Củ Chi và riêng người dân Phú Thạnh, xã Hòa Phú luôn ghi sâu mối thù này. bài thơ “Trận bố sông Lưu” ra đời lúc ấy có đoạn:

Bảy ngày liên tiếp bố vây

Tìm kiếm chưa hết nên thây tanh rình

Thây còn sót lại nó sình

Tính chung tất cả trung bình vài trăm

Nghe qua ai cũng thương thầm

Cảnh trạng chết chóc do thằng giặc ngu

Kể đây trong trận sông Lưu

Người dân Phú Thạnh đời đời ghét Tây

Thù Tây thì phải như vầy

Toàn dân chung sức giết loài Việt gian

Giết quân đế quốc tham tàn

Nước nhà độc lập huy hoàng quang vinh

            Thời kỳ này tình hình chiến trường Gia Định nói chung và chiến trường Củ Chi nói riêng rất ác liệt. Nhưng chiến tranh du kích ở Củ Chi vẫn phát triển, tinh thần chiến đấu của cán bộ, đảng viên và nhân dân Củ Chi vẫn được nâng cao, không khí chiến đấu ở khu du kích vẫn rộn ràng, sôi nổi. Các xã Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây. . . đồng bào ngoài giờ chiến đấu thì sản xuất, tích cực chuẩn bị chiến đấu như đào hầm, vót chông, rào làng. . . Thanh niên hăng hái tham gia tự vệ. Đây là thời kỳ sôi nổi nhất trong vùng tự do, ban ngày thì hội họp, chợ búa buôn bán nhộn nhịp vui tươi, đêm đêm vang lên lời ca tiếng hát, biểu diễn văn nghệ, chiếu phim. . . cuộc sống ở các xã này đã đi vào nề nếp và có tổ chức. Thỉnh thoảng bọn thực dân Pháp có đi càn quét tàn phá, nhưng sau khi chúng bị ta đánh phải tháo lui, chỉ cần vài ngày sau thì hoạt động trở lại bình thường. Cán bộ các nơi khác đến Củ Chi thời kỳ này cảm thấy yên tâm, tin tưởng vào thắng lợi. Ngoài ra, những năm từ 1949 đến 1951, Củ Chi còn là nơi an toàn để mở lớp đào tạo, tập huấn cán bộ của tỉnh và của huyện.

            Từ giữa năm 1951 bị thất bại nặng nề ở chiến trường miền Bắc, địch càng ráo riết bắn phá và bình định miền Nam. Vì biết các xã phía Bắc là căn cứ kháng chiến của tỉnh, nên chúng mở cuộc càn quét và đóng bót tại An Nhơn tây. Địch thường xuyên dùng máy bay ném bom và bắn pháo ngày đêm vào các xã ấy. Cũng từ tháng 6/1951, quân dân Củ Chi thường xuyên tổ chức đánh địch. ậ An Nhơn Tây, khi địch vừa mò vào, thì lập tức bị ta bao vây nhốt chặt trong đồn nhiều tháng, làm cho địch không dám ló mặt ra,ngày đêm mất ăn, mất ngủ, lo sợ bị tiêu diệt. Cũng trong năm 1951, ta tổ chức nhiều trận diệt địch ở bót Cây Bài, Cây Sộp xã Phước Vĩnh An, bót Tân Quy xã Tân Thạnh Tây. Trong vùng địch kiểm soát ta đẩy mạnh đấu tranh chính trị, kết hợp với đấu tranh võ trang và diệt ác, trừ gian, vận động được nhiều binh lính địch bỏ ngũ về nhà làm ăn. Huyện Củ Chi là một địa phương có phong trào binh vận khá sớm trong tỉnh. Nhờ vậy mà phong trào binh biến và đào rã ngũ thường xuyên nổ ra trongnhững năm địch chiếm đóng.

            Tháng 6/1951, do tình hình mới của chiến trường, nên trên chủ trương sáp nhập Gia Định vào cùng với Tây Ninh thành một đơn vị hành chánh gọi là Gia Định Ninh. Củ Chi thời kỳ này nằm trong sự chỉ đạo chung của tỉnh ủy Gia Định Ninh.

Tháng 6/1952 tại An Nhơn Tây, một tên lính Phápvào xóm Hầm Đất, định hãm hiếp phụ nữ, bị anh Nguyễn Văn Tua bắn chết liền tại chỗ. Cũng trong thời gian này một tên lính Pháp khác xuống ấp Bến Mương (Nhuận Đức) bị bác nông dân Hà Văn Giáp dùng rựa chặt đầu, lôi thây quăng xuống hố. Để diệt bọn ác ôn địa phương trả thù cho bà con An Nhơn Tây, em Hà Văn Đương 12 tuổi, con bác Hà Văn Giáp đến công sở của bọn Việt gian dùng tạc đạn ném tên đội Chong bị thương nặng.

            Từ cuối năm 1952 trở đi thì hầu hết các xã, kể cả những xã trước đây có phong trào du kích chiến tranh khá mạnh như: Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây đều có địch chiếm đóng.

            Giai đoạn từ năm 1952-1954, chiến trường Gia Định nói chung và ở Củ Chi nói riêng là thời kỳ gay go và gian khổ nhất. Vì trong thế bị động, thực dân Pháp tăng cường đánh phá cách mạng để bảo vệ cho Sài gòn là trung tâm quân sự, chính trị phản động của chúng.

Tuy gian khổ, nhưng cuộc sống, chiến đấu của người dân Củ Chi thời gian này vẫn vững vàng cơ sở Đảng vẫn không ngừng được củng cố và phát triển. Các tổ chức quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng ngày càng lớn mạnh, chiến tranh du kích vẫn phát triển. Điển hình là ở Phú Hòa Đông có gương dũng cảm của bác Nguyễn Văn Tý cùng 2 con là Nguyễn Văn Minh và Nguyễn Văn Xẽn đã chém chết hai tên giặc Còm-măng-đô, trong lúc chúng đi cướp của đồng bào từ phía Bình Dương đến Phú Hòa Đông, tịch thu được 02 cây súng mitin giao nộp cho cách mạng.

            Bước sang năm 1953 ngày 17/1 tạo lô cốt gần cầu rạch Sơn do anh óc chỉ huy, sau nhiều tuần lễ bao vây, có 6 tên lính mang theo 6 súng và một số tạc đạn chạy theo cách mạng. Một mẹ chiến sĩ tại ấp Bến Mương (Nhuận Đức) vận đ6ọng được 3 binh sĩ địch mang 3 múc-mát theo cách mạng. Khi phong trào đấu tranh vũ trang và chính trị lên mạnh, thì việc vận động binh sĩ có kết quả cao. Có nhiều hình thức khác nhau, nếu vận động binh sĩ không ra với cách mạng, thì họ cũng bỏ ngũ trở về với gia đình, hoặc nhận nằm lại làm nội tuyến.

            Tháng 3/1953, qua sự vận động khéo léo của một cán bộ ở xã An Nhơn Tây, Lâm Quang Phồi, đại đội trưởng đại đội Hòa Hảo ở đồn Tân Thạnh Tây, trong thời gian một năm, đã vận động, kêu gọi số lính trong đồn và 6 lô cốt khác đóng dọc lộ 8, theo cách mạng trên 100 người, có mang theo cả vũ khí. Sau đó ta dùng mìn đánh sập đồn và các lô cốt nói trên. Đây là một cuộc rã ngũ tập thể. Tình hình này tác động mạnh đến binh lính địch, làm cho tinh thần chúng hoang mang dao động đến cực độ.

            Hoạt động của đại đội 917 tỉnh Gia Định cũng gây cho địch nhiều thiệt hại đáng kể, như trận đánh rạp hát thầy Sáu Định ở thị trấn Củ Chi đã diệt 300 tên lính lê dương và nhiều trận đánh vận động chiến rượt địch chạy, cụ thể như ở Trung Hòa, xã Trung Lập.

            Công tác dân công tải gạo trong thời gian này cũng thật sôi nổi, hàng ngàn lượt người đi tải gạo ở kinh số 3, nhất là đồng bào khu 5 số gạo này được vận chuyển phân phối cho các đơn vị bộ đội như: Chi đội 6, chi đội 12, cơ quan cùng bà con dân nghèo trong huyện, xã.

Từ cuối năm 1953, do thất bại ở chiến trường Bắc bộ, nên giặc Pháp ở chiến trường miền Đông Nam bộ đã suy yếu rõ rệt, chúng không đủ lực lượng để mở những cuộc hành quân càn quét, đánh phá vùng căn cứ của ta nữa. Sang đầu năm 1954, quân ta chủ động mở những trận tấn công vào căn cứ của địch. Tinh thần binh lính địch sa sút rõ rệt. Cho nên trong thời gian này, đại đội 917 kết hợp với binh vận, chiếm bót Cây Bài một cách dễ dàng.

            Đặc biệt từ cuối năm 1953 đến đầu năm 1954, tinh thần chiến đấu của quân dân Củ Chi rất cao. Ngay trong vùng địch còn kiểm soát, quần chúng tự nổi dậy bao vây đồn bót, giết tề gian làm tê liệt bộ máy chính quyền của địch. Từ đầu năm 1954 nhất là tháng 2 và tháng 3 năm 1954, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang huyện, các xã của huyện Củ Chi, nhân dân nổi dậy bức rút hàng chục đồn bót.

Phối hợp với chiến trường Nam bộ, để làm hậu thuẩn cho chiến trường Điện Biên Phủ, quân dân Củ Chi liên tục tấn công địch ở nhiều nơi, nổi bật nhất tại xã Hòa Phú, quân dân du kích ở đây đã tổ chức đánh chiếm đồn cầu Bà Bếp trên lộ 8, diệt 3 tên, số còn lại đầu hàng. Kết quả ta thu được 3 cây múc Đức, 1 thùng lựu đạn và sau đó rút an toàn về Phú An. Ngoài ra để bào đảm hậu cần tại chỗ, việc sản xuất cũng được đẩy mạnh.

            Tháng 5/1954 tin vui chiến thắng Điện Biên Phủ đến với đảng viên, cán bộ và nhân dân Củ Chi, càng động viên, thôi thúc mọi người tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Vào những ngày kết thúc hiệp nghị tại Giơ-ne-vơ, nhân dân Củ Chi đã sớm nhìn thấy dã tâm của kẻ thù, liền đấu tranh với địch. Nhiều cuộc mít tinh, biểu dương lực lượng của quần chúng, các phong trào xoay quanh những mục tiêu đòi địch phải thể hiện thiện chí của mình để đi đến ký kết hiệp định, đồng thời ủng hộ phái đoàn chính phủ ta tại Giơ-ne-vơ và cũng trong những ngày cuối này, kẻ thù đã trả lời những đề nghị chính đáng của nhân dân Củ Chi bằng súng đạn. Sáng ngày 19/7/1954, cuộc biểu dương lực lượng của nhân dân hai xã Tân An Hội, Tân             Thông Hội trên quốc lộ 22 từ cây số 31 đến Quán Đôi, gồm hơn 600 người tham dự đã bị bọn thực dân Pháp và tay sai khủng bố, đàn áp. Anh Liêu Bình Hương cùng 53 đồng bào hy sinh và 57 người khác bị thương. Nhân dân hiểu ngay rằng đây cũng là hành động nằm trong âm mưu của địch. Nhưng tiếng súng của quân thù không hề làm cho nhân dân nao núng, họ bình tĩnh khiêng những xác chết đặt trước đồn thù, đòi bồi thường và bắt địch trả lời những câu hỏi về hành động khốn nạn của chúng.

            Tiếng súng giết người hàng loạt ở quốc lộ 22 nổ ra, toàn Củ Chi phẫn nộ, cả vùng nổi dậy đấu tranh đòi trả thù cho những người bị giết hại, hàng ngàn người kéo ra quốc lộ 22 đấu tranh, quân thù sợ hãi co rúm trong dồn. Nhân dân gồng gánh con cái, quần áo đi các nèo đường kể khổ, tố cáo quân thù.

            Cuộc nổi dậy của nhân dân Củ Chi từ 19/7/1954 đã báo hiệu tính chất quyết liệt của phong trào cách mạng ở Củ Chi, nó nói lên rằng quần chúng được thử thách thêm vững vàng, cơ sở Đảng được củng cố thêm phát triển. Cuộc đấu tranh ấy sẽ nhanh chóng chuyển thành mũi nhọn chĩa thẳng vào thế lực phản động ở các xã, ấp sau hiệp định Giơ-ne-vơ.

            Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Hòa bình trở lại trên một nửa đất nước. Tiễn con em mình ra miền Bắc tập kết, người mẹ, người vợ, người chị Củ Chi nắm chặt tay gửi chồng con mình ra Bắc nói với Trung ương Đảng, Chính phủ rằng “Nhân dân Củ Chi nguyện giữ gìn mảnh đất này. Những người vợ, người mẹ Củ Chi sẽ thay chồng con mình để chiến đấu chống kẻ thù mới. Những người Củ Chi ra đi ngày đó cũng thầm hứa với những người thân và mảnh đất họ đã từng chiến đấu rằng họ sẽ trở về giải phóng quê hương và điểm tô mảnh đất này.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta sau chín năm kiên cường chiến đấu, là kết quả của quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong thắng lợi chung của cả nước có phần đóng góp của db và nhân dân Củ Chi.

            Trong suốt chín năm kháng chiến vô cùng gian lao nhưng đầy anh dũng, đảng viên, cán bộ vẫn bám dân, bám đất chiến đấu. Quần chúng nhân dân Củ Chi tin ở Đảng, đi theo Đảng. Đảng bộ Củ Chi đã phát huy được tinh thần cách mạng triệt để, vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng. Nhờ vậy mà chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích sớm phát triển ở Củ Chi. Cơ sở Đảng không ngừng được củng cố và phát triển đã đảm bảo cho yêu cầu chiến đấu và sản xuất.

            Nhưng vừa thắng thực dân Pháp chưa được bao lâu, niềm vui của người dân Củ Chi chưa được trọn vẹn, thì kẻ thù mới lại hung hăng nhảy vào Củ Chi. Người dân Củ Chi dưới sự lãnh đạo của Đảng lại tiếp tục đứng lên, phát huy truyền thống bất khuất, tinh thần anh dũng, tuyệt vời của khu 4, khu 5 Hóc Môn khi xưa để chiến đấu chống quân xâm lược Mỹ.

bottom of page