.png)
I. Đại hội Đảng bộ huyện Củ Chi lần thứ IX (2005 - 2010)
Thực hiện Chỉ thị số 46-CT/TW (06/12/2004) của Bộ Chính trị, Kế hoạch số 41-KH/TU (31/12/2004) của Ban Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Kế hoạch số 53-KH/HU (11/01/2005) của Ban Thường vụ Huyện ủy về việc chuẩn bị tiến hành Đại hội Đảng bộ cấp cơ sở và huyện nhiệm kỳ 2005 - 2010, các văn bản hướng dẫn của Ban Tổ chức Thành ủy về công tác chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành khóa mới, bên cạnh đó, huyện Củ Chi được Thành phố chọn là đơn vị tiến hành đại hội điểm (cấp cơ sở và cấp huyện). Sau khi tiếp thu chỉ đạo của Thành ủy, huyện đã thành lập Ban Chỉ đạo Đại hội Đảng, các tiểu ban, các ban Đảng tham mưu xây dựng hướng dẫn về công tác nhân sự, xây dựng đề cương báo cáo chính trị, gợi ý thảo luận văn kiện,… chuẩn bị các nội dung chuẩn bị cho Đại hội Đảng bộ huyện.
Sau thành công của Đại hội các Chi bộ, Đảng bộ trực thuộc, được sự chấp thuận của Thành ủy, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Củ Chi lần thứ IX, nhiệm kỳ 2005 - 2010 được tổ chức trong 03 ngày, từ ngày 12 đến ngày 14 tháng 9 năm 2005 tại Hội trường huyện. Tham dự Đại hội có 200 đại biểu đại diện cho 4.458 đảng viên sinh hoạt tại 71 tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc Đảng bộ huyện.
Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Củ Chi lần thứ IX vinh dự được đón tiếp đồng chí Võ Văn Cương, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy đến tham dự và chỉ đạo Đại hội.
Đại hội phân tích bối cảnh tình hình chung của Thành phố, của huyện đã trải qua gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, đạt được những kết quả nhất định, Thành phố đã và đang triển khai nhiều dự án lớn trên địa bàn huyện Củ Chi, nhất là các dự án phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Bên cạnh đó, huyện có nhiều tiềm năng về vị trí địa lý thuận lợi, đất đai rộng lớn, nguồn lao động dồi dào; Đảng bộ và nhân dân có truyền thống cách mạng, lao động cần cù sáng tạo, hệ thống chính trị của huyện ngày càng lớn mạnh, giàu kinh nghiệm trong lãnh chỉ đạo,… là những điều kiện thuận lợi, cơ bản để huyện tiếp tục phát huy những lợi thế trong quá trình xây dựng và phát triển. Bên cạnh những thuận lợi, Đại hội nhận định Củ Chi đã và đang gặp nhiều khó khăn, tốc độ đô thị hóa nhanh dẫn đến tình trạng dân nhập cư tăng cao, cùng với sự tác động tiêu cực mặt trái của nền kinh tế thị trường làm cho tình hình an ninh trật tự và các tệ nạn xã hội càng diễn biến phức tạp hơn, mặt khác những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp và xu hướng phân hóa giàu nghèo gia tăng cũng chính là lực cản trên bước đường phát triển của huyện.
Trên cơ sở phân tích bối cảnh tình hình chung của Thành phố và huyện trong thời gian tới, Đảng bộ huyện đã đề ra mục tiêu chung thực hiện trong nhiệm kỳ 2005 - 2010: “Đẩy nhanh tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công - nông - thương mại - dịch vụ. Phấn đấu đến năm 2010, nâng mức thu nhập bình quân đầu người dân lên từ 10 đến 15 triệu đồng/ người/năm, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Từng bước ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, củng cố an ninh quốc phòng, xây dựng và củng cố hệ thống chính trị vững mạnh, xây dựng và phát triển Củ Chi trở thành một Thành phố vệ tinh của Thành phố Hồ Chí Minh có nếp sống văn minh, hiện đại”.
Để thực hiện mục tiêu chung, Đại hội đã thống nhất thông qua nhiệm vụ, mục tiêu trên từng lĩnh vực cụ thể:
Trên lĩnh vực kinh tế: Tiếp tục đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn để từng bước hoàn thiện cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - thương mại - dịch vụ huyện vào năm 2010 và những năm tiếp theo.
Phấn đấu đạt mức tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm là 18,76% (trong đó mức tăng trưởng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng 20,76%; thương mại - dịch vụ tăng 18,89%; nông - lâm nghiệp, thủy sản tăng 5,44%/năm). Trong cơ cấu nông nghiệp chăn nuôi chiếm tỷ trọng 36%, duy trì tổng đàn bò sữa của huyện khoảng 35.000 con, nâng diện tích canh tác rau an toàn lên 3.000ha. Khuyến khích đầu tư cho việc phát triển nghề nuôi trồng hoa lan, cây kiểng để phấn đấu đạt mức lợi nhuận bình quân trên một hecta đất nông nghiệp đạt từ 100 - 150 triệu đồng/năm. Đến năm 2010, Củ Chi nâng tổng diện tích trồng hoa lan, cây cảnh lên 500ha.
Tập trung chỉ đạo đẩy mạnh công tác quy hoạch và chỉnh trang đô thị, tiếp tục hoàn chỉnh quy hoạch chi tiết các khu dân cư tập trung, các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn gắn với việc thực hiện các dự án quy hoạch chung của Thành phố.
Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội: Công tác giáo dục, phấn đấu đến năm 2010 xây dựng 60% trường học đạt chuẩn Quốc gia. Duy trì kết quả đạt được về xóa mù chữ và phổ cập tiểu học, trung học cơ sở đúng độ tuổi, phấn đấu hoàn thành phổ cập trung học phổ thông vào năm 2007. Tập trung huy động 100% trẻ em độ tuổi vào mẫu giáo và lớp 1, hạn chế thấp nhất số trẻ em nghỉ, bỏ học. Chú trọng việc định hướng phân luồng học sinh ngay từ trung học cơ sở, đồng thời đẩy mạnh việc đào tạo nghề cho thanh niên cả số lượng và chất lượng để đáp ứng yêu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp và xuất khẩu lao động.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành y tế trong việc bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, chủ động phòng ngừa và ngăn chặn các loại dịch bệnh. Quan tâm đào tạo nghiệp vụ chuyên môn với việc nâng cao y đức của người thầy thuốc. Tiếp tục đầu tư hiện đại hóa phương tiện, trang thiết bị y tế chuyên dùng, mở rộng các chuyên khoa sâu phục vụ cho việc khám, điều trị như: Lọc máu, mổ nội soi, khoa ngoại thần kinh và các chuyên khoa khác.
Hoàn thành việc xây dựng Nhà Văn hóa các xã, thị trấn. Phấn đấu đến năm 2010 toàn huyện có 60% số ấp, khu phố đạt chuẩn văn hóa, 04 xã, thị trấn đạt chuẩn văn hóa và 02 xã nông thôn mới toàn diện. Cơ bản ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội ở nông thôn nhất là cờ bạc, ma túy, mại dâm.
Phấn đấu đến năm 2009, huyện Củ Chi hoàn thành chỉ tiêu xóa hộ nghèo theo tiêu chí 6 triệu đồng/người/năm. Hàng năm đào tạo, giới thiệu và tạo việc làm ổn định cho từ 6.000 đến 8.000 lao động.
Công tác an ninh quốc phòng: Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng an ninh vững chắc. Tiếp tục triển khai quán triệt thực hiện Chương trình hành động “Thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về chiến lược bảo vệ an ninh Tổ quốc trong thời kỳ mới”. Các chương trình hành động của Thành ủy và Huyện ủy về lãnh đạo cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng trong toàn Đảng, toàn dân đối với âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; phấn đấu giữ vững tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội, kéo giảm số vụ phạm pháp hình sự mỗi năm từ 5 - 7%, ngăn chặn và từng bước đẩy lùi các tệ nạn xã hội nhất là ma túy trên địa bàn huyện.
Thường xuyên tăng cường công tác nắm tình hình, xử lý kịp thời các vụ tranh chấp khiếu kiện phức tạp, không để kéo dài và phát sinh thành điểm nóng. Phát huy tốt vai trò tham mưu của ngành công an, quân sự trong việc giữ gìn an ninh chính trị - trật tự xã hội. Củng cố xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh.
Đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc sâu rộng trong nhân dân, đồng thời quan tâm xây dựng mạng lưới an ninh cơ sở vững mạnh. Thực hiện tốt công tác quản lý, huấn luyện, diễn tập và nâng cao chất lượng hội thao các cấp. Phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân nghĩa vụ quân sự hàng năm cả về chất lượng và số lượng.
Tổ chức tốt việc bồi dưỡng, huấn luyện diễn tập hàng năm, đồng thời tăng cường phối hợp chặt chẽ với các đơn vị trú đóng trên địa bàn trong việc củng cố xây dựng khu vực phòng thủ địa phương.
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ xã đội, thị đội, lực lượng công an viên và tổ trưởng, tổ phó tổ nhân dân có trình độ chuyên môn nghiệp vụ để làm tốt công tác quản lý địa bàn, quản lý đối tượng góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nhất là các xã yếu.
Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên. Trước hết phải tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ nhằm nâng cao nhận thức chính trị, tạo sự thống nhất trong ý chí và hành động, tính gương mẫu của đảng viên trong việc chấp hành cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Mỗi tổ chức cơ sở Đảng phải coi trọng việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, duy trì nền nếp tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng nhằm ghi nhận, phát huy những ưu điểm, thấy được những khuyết điểm để ra sức khắc phục sửa chữa, phấn đấu vươn lên hoàn thành nhiệm vụ.
Tiếp tục thực hiện tốt Cuộc vận động Xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) nhằm xây dựng hệ thống tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Tập trung củng cố các cơ sở Đảng yếu kém, chú trọng xây dựng các tổ chức Đảng ở các doanh nghiệp tư nhân. Phấn đấu đến năm 2010 không còn đơn vị yếu kém và có 90% cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng được 80% chi bộ Đảng ở các doanh nghiệp tư nhân có điều kiện. Hàng năm, mỗi tổ chức cơ sở Đảng phải có chương trình, kế hoạch cụ thể trong việc giáo dục, bồi dưỡng cảm tình Đảng để chủ động tạo nguồn phát triển Đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên mới, phấn đấu trong nhiệm kỳ kết nạp 700 đảng viên mới.
Nâng cao vai trò tham mưu của các đảng viên và Văn phòng Huyện ủy trong việc thực hiện văn bản hóa hoạt động của các cấp ủy Đảng. Tiếp tục kiện toàn quy chế làm việc, đổi mới phong cách lãnh đạo, xác định rõ mối quan hệ giữa cơ quan Đảng, chính quyền và các đoàn thể chính trị để phát huy chức trách của từng tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị, khắc phục bệnh quan liêu, bàn giấy và tình trạng bao biện, làm thay hoặc ỷ lại vào cấp ủy.
Tiếp tục kiện toàn, sắp xếp lại tổ chức bộ máy theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII). Nâng cao trách nhiệm của tập thể và vai trò cá nhân, đặc biệt là người đứng đầu của các tổ chức trong cơ quan Đảng, chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội. Đổi mới phong cách, lề lối làm việc, kiên quyết giảm bớt hội họp, chỉ tổ chức những hội nghị thật sự cần thiết, nâng cao chất lượng các hội nghị, tăng cường sự chỉ đạo bằng văn bản, thực hiện tốt chế độ đi cơ sở, đổi mới quy trình ban hành nghị quyết và chỉ đạo thực hiện nghị quyết.
Tiến hành rà soát lại đội ngũ cán bộ đương nhiệm để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng theo hướng chuẩn hóa cán bộ, từng bước xây dựng kế hoạch lâu dài về cán bộ. Phấn đấu đến Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ X, Củ Chi có đủ đội ngũ cán bộ được chuẩn hóa theo yêu cầu của Thành phố, trong 5 năm có thêm khoảng 400 cán bộ có trình độ đại học, cao cấp và cử nhân chính trị.
Tập trung củng cố xây dựng bộ máy chính quyền huyện và cơ sở vững mạnh, thực sự là chính quyền “của dân, do dân, vì dân”. Chú trọng việc nâng cao chất lượng hoạt động của đại biểu, các tổ đại biểu và chất lượng kỳ họp Hội đồng nhân dân các cấp, tăng cường kiểm tra, giám sát Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân đối với hoạt động của các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và giải quyết các yêu cầu bức xúc của dân.
Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước cấp huyện và cơ sở. Tăng cường hơn nữa công tác quản lý hành chính Nhà nước, đặc biệt là trên các lĩnh vực quản lý đất đai, xây dựng, công tác quy hoạch và một số ngành nghề nhạy cảm trên lĩnh vực văn hóa. Kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
Xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa các cơ quan công quyền với nhân dân và các đơn vị sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện để thu hút đầu tư, thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Công khai hóa mọi thủ tục hành chính, đồng thời thực hiện tốt chế độ tiếp dân định kỳ.
Tiếp tục củng cố nâng cao hiệu quả hoạt động của ban nhân dân ấp, ban bảo vệ khu phố và các tổ dân phố, tổ nhân dân nhằm tạo điều kiện tốt cho việc triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, nhũng nhiễu của cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước. Xử lý nghiêm trách nhiệm của người đứng đầu nếu để xảy ra sai phạm, tiêu cực trong đơn vị.
Tiếp tục chỉ đạo triển khai thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước và cán bộ công chức, ngăn ngừa và đấu tranh phòng chống có hiệu quả tệ quan liêu, tham nhũng.
Đổi mới và tăng cường công tác vận động quần chúng của Đảng nhằm phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân. Các cấp ủy Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên cần nâng cao ý thức trách nhiệm, có chương trình, kế hoạch đối với công tác vận động quần chúng. Phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị của mỗi tổ chức cơ sở Đảng, tính gương mẫu của người đảng viên trong phong trào quần chúng, tích cực tham gia củng cố các hội, đoàn, chăm lo giải quyết những nguyện vọng, lợi ích chính đáng của quần chúng. Thực hiện tốt quy chế kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước.
Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội nhằm nâng cao vai trò cơ quan đại diện, thực sự là chỗ dựa tin cậy của nhân dân. Mọi hoạt động phải hướng về cơ sở, phát triển sâu rộng các phong trào quần chúng trên địa bàn dân cư. Củng cố hệ thống chân rết của Mặt trận - đoàn thể ở ấp, khu phố, tổ dân phố, tổ nhân dân, đồng thời xây dựng lực lượng chính trị nòng cốt cơ sở vững mạnh. Qua từng phong trào phải có sơ, tổng kết và rút ra các gương tập thể, cá nhân điển hình tốt để tiếp tục bồi dưỡng, đào tạo, giới thiệu những cán bộ ưu tú cho Đảng. Tiếp tục phát huy cơ chế dân chủ đại diện với mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở. Coi trọng việc lấy ý kiến nhân dân đối với những vấn đề quan trọng có liên quan đến lợi ích chính đáng của đông đảo quần chúng.
Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IX thông qua 05 chương trình trọng điểm:
Chương trình phát triển cây con: Phấn đấu đến năm 2010 diện tích canh tác rau an toàn đạt 3.000ha; hoa lan, cây kiểng 500ha; đàn bò sữa duy trì ở mức 35.000 con.
Chương trình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng: Phấn đấu đến năm 2010 hoàn thành xây dựng trụ sở làm việc và Nhà Văn hóa Thể thao của các xã, thị trấn còn lại. Cấp phối sỏi đỏ 200km và bê tông nhựa nóng 130km đường giao thông nông thôn - giao thông nội đồng.
Chương trình nhà ở cho người có thu nhập thấp và giảm hộ nghèo: Phấn đấu hoàn thành mục tiêu giảm hộ nghèo theo tiêu chí mới Thành phố vào năm 2009. Giải quyết và tạo việc làm cho 40.000 lao động, xây dựng 500 căn nhà cho hộ dân có thu nhập thấp.
Chương trình văn hóa - xã hội: Xây dựng 60% số trường đạt chuẩn Quốc gia, hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục trung học phổ thông vào năm 2007. Đầu tư nâng cấp, mở rộng Trung tâm Y tế Củ Chi thành Bệnh viện Đa khoa hạng hai với 500 giường nội trú, nâng cấp Bệnh viện An Nhơn Tây thành Bệnh viện Đa khoa hạng ba với 200 giường. Xây dựng 02 xã nông thôn mới toàn diện.
Chương trình mục tiêu 3 giảm: Phấn đấu hạn chế thấp nhất số người nghiện ma túy và các tệ nạn xã hội trên địa bàn huyện. Kéo giảm tai nạn giao thông xuống 20%/năm, án hình sự giảm từ 5 - 7%.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa IX (nhiệm kỳ 2005 - 2010) gồm 39 đồng chí. Trong phiên họp thứ nhất, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 11 đồng chí. Đồng chí Trà Văn Quýnh được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy, đồng chí Nguyễn Văn Bu được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy, đồng chí Lâm Văn Sơn được bầu giữ chức Phó Bí thư Huyện ủy.
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Củ Chi, nhiệm kỳ 2005 - 2010 ra mắt Đại hội
Đại hội Đảng bộ huyện Củ Chi lần thứ IX có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đây là cơ sở, là tiền đề để huyện tiếp tục phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đảng bộ huyện xác định việc thực hiện thắng lợi những phương hướng, nhiệm vụ này chính là đặt nền móng cho những bước phát triển nhanh và bền vững của huyện Củ Chi trong những năm tiếp theo.
[1] Danh sách Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Củ Chi, nhiệm kỳ 2005 - 2010, xem phần Phụ lục.
II. Đảng bộ huyện lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - nông nghiệp - thương mại, dịch vụ
Quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Củ Chi lần thứ IX diễn ra trong bối cảnh đất nước và Thành phố đang tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khoa học - công nghệ ngày càng phát triển và được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật tiếp tục xây dựng, thu hút nhiều doanh nghiệp đầu tư trên địa bàn huyện, tạo ra sự phát triển nhanh và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng. Mặt khác, giá cả thị trường không ổn định, thời tiết, dịch bệnh diễn biến bất thường đã tác động, gây không ít khó khăn cho việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Trước tình hình trên, để hoàn thành nhiệm vụ chính trị đề ra trong nhiệm kỳ 2005 - 2010, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã đoàn kết thống nhất, đổi mới phương thức lãnh đạo làm hạt nhân chính trị của toàn Đảng bộ, tập hợp được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.
Quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IX (2005 - 2010) qua 19 phiên họp định kỳ, Ban Chấp hành và Ban Thường vụ Huyện ủy đã đề ra 20 nghị quyết, xây dựng 03 quy chế, 38 chương trình hành động, 87 kế hoạch, 07 hướng dẫn, 349 công văn, 26 thông tri để đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ do Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện đề ra, nhằm phấn đấu thực hiện thắng lợi, hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu nghị quyết đề ra.
Xác định Củ Chi là một huyện nông nghiệp, nông thôn ngoại thành của Thành phố Hồ Chí Minh, huyện đã tập trung đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên cơ cấu kinh tế của huyện từng bước có sự chuyển biến tích cực từ mục tiêu cơ cấu “công nghiệp - nông nghiệp - thương mại - dịch vụ” chuyển rõ nét theo cơ cấu “công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - thương mại dịch vụ - nông nghiệp”, tức tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp, thương mại dịch vụ, giảm dần tỷ trọng của ngành nông nghiệp, điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế chung của Thành phố và huyện trong quá trình thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Mức tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2005 - 2010 là 20,26% (vượt 1,51% so với chỉ tiêu nghị quyết đại hội đề ra), trong đó công nghiệp tăng bình quân 20,91% (chiếm tỷ trọng 70,27%), thương mại - dịch vụ tăng 27,34% (chiếm tỷ trọng 18,86%) và nông nghiệp tăng 9,41% (chiếm tỷ trọng 10,87%).
Ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại - dịch vụ trên địa bàn huyện có bước phát triển nhanh. Cơ cấu sản xuất công nghiệp tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng mạnh ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và công nghiệp dân doanh. Tính đến năm 2010, trên địa bàn huyện có 2.029 doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có 67 doanh nghiệp (100% vốn nước ngoài), thu hút trên 43.959 lao động của địa phương và một phần lao động nhập cư.
Thương mại - dịch vụ đạt mức tăng trưởng bình quân là 27,34%/năm (vượt 8,45% chỉ tiêu Nghị quyết đề ra là 18,89%). Hàng hóa đa dạng, phong phú đáp ứng được nhu cầu sản xuất và tiêu dùng ngày càng cao của nhân dân. Huyện tích cực thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, tăng cường các hoạt động kiểm tra, kiểm soát bảo đảm ổn định giá cả, thị trường. Qua đó, thị trường tiêu thụ có chuyển biến tích cực.
Toàn huyện có 65 tổ hợp tác và 28 hợp tác xã, có 12 đơn vị hoạt động kinh doanh có hiệu quả, trong đó một số hợp tác xã nông nghiệp như: Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Tương Lai, Hợp tác xã chăn nuôi heo an toàn Tiên Phong được thành lập trên cơ sở tự nguyện và xuất phát từ nhu cầu hợp tác của xã viên, Ban Quản trị và Ban Chủ nhiệm hợp tác xã năng động trong ứng dụng khoa học công nghệ và tiếp cận được thị trường giải quyết đầu ra của sản phẩm.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, trong nhiệm kỳ tiếp tục có những chuyển biến rõ nét trong thực hiện chương trình trọng điểm chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp từ cây lúa, hoa màu có năng suất thấp sang cây lan và rau an toàn, từ chăn nuôi trâu bò truyền thống sang bò sữa, chăn nuôi trang trại heo với quy mô lớn, từ đó thay đổi mạnh mẽ tư duy trồng trọt, chăn nuôi truyền thống sang áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm đạt năng suất, chất lượng cao. Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện đã tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện đề án chuyển đổi cây trồng, vật nuôi cho các xã, thị trấn, nhất là đối với 05 xã điểm (Tân Thạnh Đông, Bình Mỹ, Nhuận Đức, Trung An, Trung Lập Hạ). Đồng thời, thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp như kiên cố hóa kênh mương, giao thông nội đồng, hầu hết các khâu sản xuất đã được đầu tư cơ giới hóa. Chú trọng hướng dẫn người dân đưa giống mới có chất lượng cao vào sản xuất, công tác bảo vệ thực vật và công tác thú y luôn được quan tâm chỉ đạo. Kết quả, huyện đã chuyển đổi 6.097,49ha đất canh tác lúa có năng suất thấp sang những cây trồng khác có hiệu quả kinh tế cao, nhất là lan và rau an toàn. Diện tích rau an toàn gieo trồng được 2.000ha (đạt 66,6% chỉ tiêu nghị quyết, hoa kiểng là 300ha đạt 60%). Ngành chăn nuôi phát triển khá, đàn bò tiếp tục duy trì và phát triển nhanh, năm 2010 tổng đàn bò 58.037 con, trong đó bò sữa 41.219 con (vượt chỉ tiêu Nghị quyết), sản lượng sữa 245.597kg/ngày. Đàn heo phát triển với quy mô trang trại tổng đàn 187.375 con, cá sấu 28.138 con. Nuôi trồng thủy sản diện tích ước đạt 225ha. Huyện đang thử nghiệm một số loài mới như rắn, lươn, cá chình, riêng cá cảnh có xu hướng tăng mạnh với khoảng 12ha là mặt hàng có giá trị kinh tế cao. Tỷ trọng ngành chăn nuôi chiếm 48,24% (vượt 13,4% so với nghị quyết đề ra), trồng trọt chiếm 40,11%, dịch vụ nông nghiệp chiếm 11,65%.
Thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW (05/8/2008) của Ban Chấp hành Trung ương khóa X; Chương trình hành động số 43-CTr/TU (20/10/2008) của Thành ủy về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đảng bộ huyện xác định Nghị quyết 26 chính là một nguồn động lực quan trọng, là đòn bẩy, là hướng mới mở ra cho địa bàn Củ Chi vùng nông thôn ngoại thành phát triển toàn diện phù hợp với xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân trên địa bàn huyện. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đề ra Chương trình hành động số 34-Ctr/HU (26/5/2009) với mục tiêu: “Xây dựng, phát triển nông nghiệp huyện Củ Chi đến năm 2020 theo hướng hiện đại, bền vững, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, gắn với đặc thù nông nghiệp ngoại thành của một Thành phố lớn nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và hình thức tổ chức sản xuất phù hợp với quy hoạch và định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, củng cố khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức trong đó chú trọng xây dựng giai cấp nông dân có trình độ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, rút ngắn sự chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn huyện Củ Chi”.
Ngay từ khi triển khai thực hiện chương trình, huyện Củ Chi đã xác định xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ chính trị lớn, lâu dài và sự chung tay vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Huyện ủy đã thành lập Ban Chỉ đạo Nông thôn mới huyện gồm 43 thành viên, trong đó đồng chí Bí thư Huyện ủy làm Trưởng ban, đồng chí Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện (phụ trách kinh tế) làm Phó Trưởng ban Thường trực và các đồng chí trưởng các ngành, đoàn thể huyện, các đồng chí là Bí thư xã làm thành viên. Huyện ủy chỉ đạo Ủy ban nhân dân huyện xây dựng các chương trình, kế hoạch thực hiện theo 19 tiêu chí của chương trình nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn cho từng giai đoạn trên địa bàn huyện.
Thực hiện Chương trình Xây dựng Nông thôn mới, 02 xã của huyện được chọn làm xã điểm đó là xã Tân Thông Hội và xã Thái Mỹ. Ngay trong năm 2009, Huyện ủy đã chỉ đạo các xã, các đơn vị phối hợp thực hiện lập quy hoạch, đề án xây dựng nông thôn mới của 02 xã đã được Thành phố phê duyệt, đồng thời đẩy nhanh tiến độ thực hiện các tiêu chí. Tính đến năm 2010, xã Tân Thông Hội cơ bản đã hoàn thành được 14/19 tiêu chí, xã Thái Mỹ cơ bản hoàn thành 13/19 tiêu chí, tiến độ thực hiện đạt yêu cầu đã đề ra. Song song đó, huyện Củ Chi tiếp tục triển khai chọn 05 xã điểm để thực hiện, qua khảo sát ban đầu, thu nhập của người dân đạt từ 15 đến 16,5 triệu đồng/người/ năm. Căn cứ theo 19 tiêu chí nông thôn mới, các xã của huyện Củ Chi chỉ đạt từ 5 đến 7/19 tiêu chí (các tiêu chí chủ yếu đạt chuẩn như: Điện, bưu điện, hệ thống tổ chức chính trị vững mạnh, an ninh quốc phòng,…).
Trong giai đoạn 2006 - 2010 vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn của huyện là 784,68 tỷ đồng (bao gồm vốn của Trung ương, Thành phố và huyện) góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, xây dựng được nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả kinh tế cao đạt doanh thu 100 triệu hecta/năm như mô hình trồng rau an toàn, hoa lan, cây kiểng, chăn nuôi bò sữa, chăn nuôi heo theo hướng kinh tế trang trại.
Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn huyện hàng năm đạt và vượt chỉ tiêu Thành phố giao. Ước thực hiện thu ngân sách Nhà nước giai đoạn 2006 - 2010 là 1.094,984 tỷ đồng (đạt 233% chỉ tiêu nghị quyết đề ra là 468,499 tỷ đồng), tăng bình quân 14,94% năm. Chi ngân sách là 2.418,134 tỷ đồng (đạt 20,4% chỉ tiêu nghị quyết đề ra).
Hạ tầng kỹ thuật tiếp tục được đầu tư xây dựng, góp phần đổi mới và phát triển nông nghiệp, nông thôn Củ Chi. Tổng giá trị thực hiện trên địa bàn huyện (tính cả nguồn vốn đầu tư của Thành phố đầu tư trực tiếp trên địa bàn huyện) là 1.845,302 tỷ đồng (đạt 67,75% so nghị quyết đề ra). Trong đó vốn đầu tư lĩnh vực giao thông chiếm 47,73%; văn hóa - xã hội là 38,82%, thủy lợi là 13,45%. Trong đó, nhân dân đã đóng góp vốn 6.688 tỷ đồng và tự nguyện hiến đất làm đường giao thông nông thôn, giao thông thủy lợi nội đồng với diện tích 150ha (tổng trị giá 299 tỷ đồng). Đặc biệt, trong nhiệm kỳ này, ngoài các tuyến đường giao thông lớn do Thành phố đầu tư nâng cấp, huyện đã thực hiện nhựa hóa 250km giao thông xã, ấp, liên ấp, liên tổ, có những tuyến đường người dân tự nguyện hiến đất mở rộng mà không phải đền bù, tiêu biểu như đường Lê Minh Nhật dài hơn 6km. Đây chính là những thành tựu to lớn mà Đảng bộ và nhân dân huyện đạt được nhằm thay đổi bộ mặt huyện thêm khang trang hơn.
Việc đầu tư hạ tầng kỹ thuật cho mạng lưới giao thông đường bộ và hệ thống thủy lợi nhằm phục vụ yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới của huyện. Lĩnh vực văn hóa - xã hội được đầu tư xây dựng nhà, bia tưởng niệm anh hùng liệt sĩ ở các xã, thị trấn, thực hiện chương trình đèn chiếu sáng dân lập, xây dựng trường học, Trạm Y tế đạt chuẩn Quốc gia về cơ sở vật chất và hoàn thành việc xây dựng trụ sở làm việc của Ủy ban nhân dân huyện và 21 xã, thị trấn. Việc chú trọng đầu tư cho cơ sở hạ tầng kỹ thuật đã giúp huyện hoàn thành chương trình trọng điểm về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng theo Nghị quyết Đại hội đề ra, cụ thể hoàn thành việc xây dựng trụ sở làm việc của Ủy ban nhân dân dân huyện và 21 xã, thị trấn, xây dựng Nhà Văn hóa - Thể thao xã Thái Mỹ, đến năm 2010 hoàn thành 200km đường cấp phối sói đỏ và 233.158km đường bê tông nhựa nóng đạt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra.
Công tác quản lý đô thị đạt nhiều kết quả quan trọng, huyện đã hoàn thành việc lập đồ án quy hoạch chung, xây dựng huyện Củ Chi (điều chỉnh) và triển khai quy hoạch 05 khu và 05 cụm công nghiệp, một số đồ án quy hoạch phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội khác như: Quy hoạch Khu Đô thị Tây Bắc; Quy hoạch Khu Trung tâm Thương mại huyện; Làng hoa kiểng, cá cảnh; Khu biệt thự nhà vườn kết hợp với du lịch sinh thái ven sông Sài Gòn; Khu Di tích Sài Gòn - Gia Định; Thảo Cầm viên Sài Gòn; Phim trường (Hòa Phú); Viện trường; Khu vui chơi giải trí quốc tế. Triển khai 05 đồ án quy hoạch chung, khu vực quy hoạch chi tiết, khu trung tâm và các khu dân cư: Xã Thái Mỹ, Phước Hiệp, thị tứ Trung Lập và xã Trung Lập Hạ, hoàn thành quy hoạch mạng lưới trường học, y tế, các cơ sở văn hóa và thể dục thể thao của huyện đến 2020.
Trong công tác quản lý, sử dụng đất đạt được những kết quả đáng kể, khai thác được tiềm năng đất đai góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Huyện đã hoàn thành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho diện tích đất nông nghiệp.
Với mục tiêu tiếp tục phấn đấu xây dựng huyện Củ Chi trở thành một huyện xanh, sạch, phát triển hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với thúc đẩy tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường theo hướng phát triển toàn diện và bền vững. Sau 05 năm thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) và Chương trình hành động số 03-CTr/HU (28/02/2006) của Huyện ủy “Về bảo vệ môi trường thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân trong huyện. Cùng với việc tiến hành quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, các cấp ủy đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường trong cán bộ, đảng viên, tổ chức đoàn thể và nhân dân; tăng cường công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường, kiên quyết di dời cơ sở sản xuất gây ô nhiễm trên địa bàn dân cư vào các khu công nghiệp tập trung, kiểm tra xử lý các đơn vị gây ô nhiễm môi trường, quản lý nguồn tài nguyên cát, nước ngầm. Công tác thu gom, xử lý rác và tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách về ô nhiễm nước thải công nghiệp, chất thải độc hại đã góp phần cải thiện cục bộ, ngăn chặn ô nhiễm, suy thoái về môi trường. Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng được thực hiện nhanh chóng, huyện đã lập thủ tục bố trí các khu tái định cư của các dự án cho 330 hộ có nhu cầu. Việc triển khai thực hiện tốt Nghị quyết số 41 của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Huyện ủy đã từng bước khắc phục những hạn chế về môi trường, tạo cảnh quan văn minh, hiện đại và góp phần nâng cao chất lượng sống của nhân dân.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng và phát triển kinh tế của huyện còn những mặt hạn chế như chưa định hình được các ngành công nghiệp mũi nhọn: Chế biến thực phẩm, cơ khí công nghệ cao, hóa dược,… Các ngành kinh tế của huyện tăng trưởng nhưng chưa vững chắc, chưa khai thác đầy đủ thế mạnh về đất đai, lao động, tỷ trọng ngành dịch vụ chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu phát triển. Các khu, cụm công nghiệp được quy hoạch nhưng triển khai thực hiện quy hoạch còn chậm, vệ sinh môi trường còn nhiều doanh nghiệp vi phạm, tỷ lệ hộ dân đăng ký thu gom rác còn thấp, việc nhân rộng các mô hình chuyển đổi từ năng suất thấp, kém hiệu quả sang cây trồng khác có giá trị và hiệu quả kinh tế cao chưa kịp thời. Diện tích gieo trồng rau an toàn hàng năm và hoa lan, cây kiểng đạt thấp so chỉ tiêu nghị quyết đề ra. Một một số hợp tác xã nông nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu quả.
III. Lãnh đạo xây dựng, phát triển văn hóa - xã hội
Trên lĩnh vực văn hoá - xã hội, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi đặc biệt quan tâm, chú trọng việc phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế. Ban Thường vụ Huyện ủy đã tổ chức nhiều cuộc hội nghị chuyên đề về tăng cường thực hiện phổ cập trung học cơ sở và trung học phổ thông, đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị cho ngành giáo dục, y tế. Trong 05 năm huyện đã đầu tư xây dựng mới 14 trường học các cấp từ mầm non đến trung học cơ sở. Công tác giáo dục đào tạo có sự chuyển biến tích cực, chất lượng dạy và học từng bước được nâng lên. Tỷ lệ huy động học sinh 5 tuổi ra lớp mẫu giáo, số học sinh nhập học đúng độ tuổi bậc tiểu học, trung học cơ sở đạt 100% và trung học phổ thông đạt 98,69%. Hiệu suất đào tạo bậc tiểu học đạt 98,69%, trung học cơ sở 77,6% và bậc trung học phổ thông 59,52%. Hàng năm có từ 14,12% đến 20% học sinh thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng của Thành phố. 100% đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên trực tiếp đứng lớp được chuẩn hóa, có 09 trường được công nhận đạt chuẩn Quốc gia. Huyện đã hoàn thành chỉ tiêu phổ cập giáo dục bậc trung học trong năm 2008 (trước thời gian 02 năm so với Nghị quyết đề ra) và 21/21 xã, thị trấn có Trung tâm học tập cộng đồng duy trì hoạt động thường xuyên.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều đổi mới đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân. Từ năm 2007, Trung tâm Y tế Củ Chi được nâng cấp thành Bệnh viện Đa khoa khu vực Củ Chi với quy mô 1.000 giường.
Huyện đã lập thủ tục cho việc đầu tư nâng cấp, sửa chữa Bệnh viện huyện Củ Chi (Bệnh viện An Nhơn Tây cũ), tăng cường củng cố tuyến y tế cơ sở đảm bảo thực hiện tốt việc sơ cấp cứu ban đầu, tổ chức khám, điều trị bệnh cho nhân dân, góp phần giảm tải cho bệnh viện huyện và tuyến trên. Đồng thời triển khai thực hiện tốt công tác vệ sinh phòng bệnh và các chương trình y tế Quốc gia, xây dựng 10 Trạm Y tế đạt chuẩn Quốc gia về cơ sở vật chất.
Công tác đền ơn, đáp nghĩa, chăm lo đời sống nhân dân nghèo đã phát huy được tình đoàn kết tương trợ của các tầng lớp nhân dân trên địa bàn. Thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 07CT/TW (14/12/2006) của Ban Bí thư về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác thương binh, liệt sĩ và người có công, đặc biệt là Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” đạt hiệu quả thiết thực. Huyện đã tổ chức nhiều hoạt động thiết thực chăm lo đời sống các gia đình chính sách và hộ nghèo. Năm 2006, trên địa bàn huyện có 769 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, trong đó có 110 mẹ còn sống, có 10.510 liệt sĩ, 2.973 thương binh, bệnh binh, 13.598 hộ gia đình liệt sĩ, gia đình có công cách mạng. Ngoài việc thực hiện trợ cấp thường xuyên theo quy định, hàng năm huyện tổ chức đến thăm hỏi, tặng quà nhân các ngày lễ tết cho 24.588 hộ chính sách, tổng kinh phí dao động từ 8 tỷ đến hơn 10 tỷ đồng. Đồng thời, tiếp tục vận động xây tặng nhiều nhà tình nghĩa, nhà tình thương, bảo đảm an sinh xã hội, thu nhập và đời sống của người dân được cải thiện, nhà ở cơ bản được toilet, ngói hóa và trang bị tiện nghi trong sinh hoạt. Trong nhiệm kỳ có 58.722 lao động được giải quyết việc làm ổn định (đạt 146% chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra), số lao động được đào tạo nghề đạt tỷ lệ 37,01%.
Trong năm 2006, qua điều tra và phúc tra, toàn huyện có 8.084 hộ trong diện xóa đói, giảm nghèo (có thu nhập dưới 6 triệu đồng/người/năm), trong ba năm, bằng các biện pháp hỗ trợ như tạo điều kiện cho các hộ vay vốn từ quỹ, giải quyết việc làm,… đã giúp các hộ vươn lên thoát đói, nghèo. Năm 2008, huyện Củ Chi hoàn thành sớm Chương trình “Xóa đói giảm nghèo” giai đoạn 2 (trước thời gian 01 năm so với Nghị quyết đề ra). Từ năm 2009 huyện thực hiện giai đoạn 3 của Thành phố (2009 - 2015) với mức chuẩn thu nhập dưới 12 triệu đồng/người/năm. Đến năm 2010, huyện Củ Chi còn 22.266 hộ (chiếm tỷ lệ 23,53%), trong đó xã có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất là An Phú, Hòa Phú, Phú Mỹ Hưng, Phước Hiệp.
Việc quan tâm thực hiện tốt các vấn đề trên lĩnh vực văn hóa, xã hội đã góp phần hoàn thành một số chỉ tiêu trong chương trình trọng điểm của nghị quyết đại hội Đảng bộ đề ra đó là hoàn thành chỉ tiêu giảm hộ nghèo giai đoạn 2 theo tiêu chí 6 triệu đồng/người/năm trước 01 năm so với Nghị quyết đề ra; giải quyết và tạo việc làm cho 58.722 lao động, vượt 46,8% so chỉ tiêu Nghị quyết. Xây dựng 09 trường đạt chuẩn Quốc gia, nâng cấp Trung tâm Y tế thành Bệnh viện Đa khoa khu vực Củ Chi với quy mô 1.000 giường bệnh, lập thủ tục đầu tư nâng cấp bệnh viện huyện và triển khai xây dựng hai xã điểm nông thôn mới.
Hoạt động văn hóa thông tin, thể dục thể thao và thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” có bước phát triển mới theo hướng nâng cao về chất lượng. Đến năm 2010 đã có 21 xã, thị trấn và 178 ấp, khu phố đăng ký xây dựng xã - ấp văn hóa; trong đó có 150/178 ấp, khu phố được công nhận đạt chuẩn văn hóa (đạt tỷ lệ 84,27%) tăng 22 ấp, khu phố so với năm 2006 và 1/21 xã, thị trấn 03 năm liền được công nhận Xã Văn hóa (xã Thái Mỹ). Huyện đã xây dựng được 02 Phòng Truyền thống xã, thị trấn và 106 góc truyền thống của ấp, khu phố. Công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động tiếp tục phát huy hiệu quả, góp phần đưa chủ trương, nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống, biểu dương các gương điển hình người tốt, việc tốt, đồng thời phê phán những mặt tiêu cực, lạc hậu và các tệ nạn xã hội, góp phần định hướng cho việc xây dựng môi trường xã hội nông thôn văn minh, lành mạnh.
Năm 2007, sau 10 năm thực hiện Chỉ thị 27-CT/TW (12/01/1998) của Bộ Chính trị khóa VIII về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, với sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, đồng bộ của các cấp ủy Đảng, chính quyền từ huyện xuống xã, huyện đã có những bước chuyển biến tích cực trong đời sống xã hội. Đặc biệt là chỉ đạo các cấp ủy đảng của 21 xã, thị trấn phải gắn với việc thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; cụ thể hóa các quy định về việc tang, việc cưới, lễ hội trong việc xây dựng và thực hiện bản quy ước ấp, khu phố văn hóa. Kết quả, việc kết hôn đã tuân thủ đúng pháp luật, hôn nhân tự nguyện, kết hôn đúng tuổi, thực hiện đăng ký kết hôn tại các Ủy ban nhân dân xã, thị trấn trước khi tổ chức lễ cưới. Các hiện tượng ép hôn, tảo hôn, thách cưới đã xóa bỏ hẳn. Tổ chức tiệc mừng trong lễ cưới hầu hết là đơn giản gọn nhẹ, tiết kiệm, an toàn vệ sinh thực phẩm. Trong việc tang được tổ chức trang trọng, không còn hiện tượng mê tín dị đoan, yểm bùa, khóc mướn, lăn đường và những nghi lễ rườm rà khác. Lễ hội được tổ chức trang nghiêm, ngắn gọn, tiết kiệm, giữ gìn an ninh trật tự, không tổ chức đãi tiệc theo đúng quy chế lễ hội do Bộ Văn hóa thông tin ban hành. Các ngày kỷ niệm truyền thống ngành, tổng kết cuối năm, khai trương, động thổ, khánh thành công trình, đón nhận những danh hiệu cao quý,… đều tổ chức đơn giản, tiết kiệm, không phô trương hình thức. Không có hiện tượng biếu xén quà cáp cho đại biểu, hay cúng lễ mang tính mê tín dị đoan.
Phong trào văn hóa, văn nghệ duy trì và phát huy được loại hình đờn ca tài tử, thể dục thể thao phát triển khá sâu rộng, với trên 22% số dân tham gia phong trào luyện tập thường xuyên, trong đó khu vực trường học đạt 98%. Thành tích thi đấu ở một số bộ môn cấp huyện và hội thao cấp Thành phố được nâng lên.
Tuy nhiên, hạn chế trên lĩnh vực văn hóa - xã hội của huyện trong nhiệm kỳ đó là việc xây dựng trường, trạm đạt chuẩn còn chậm, việc nâng cấp Bệnh viện Củ Chi, Nhà Văn hóa cụm An Nhơn Tây, 500 căn hộ cho người có thu nhập thấp chưa được triển khai thi công. Công tác phổ cập giáo dục nhiều xã còn khó khăn, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn cao (1,65%), trong đó tỷ lệ sinh con thứ 3 chiếm 4,89%, số trẻ em suy dinh dưỡng còn chiếm tỷ lệ 5%, tệ nạn xã hội nhất là cờ bạc, đá gà, ghi số đề chưa được ngăn chặn, đẩy lùi triệt để. Cuộc vận động thực hiện nếp sống văn minh đô thị chưa thực sự đi vào chiều sâu nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội vẫn còn một số cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, còn phô trương hình thức gây mất lòng tin trong nhân dân, chất lượng hiệu quả hoạt động của ấp, khu phố văn hóa một số nơi còn hạn chế.