I. Củ Chi đấu tranh đòi Mỹ- Diệm thi hành hiệp định Giơ-ne-vơ chống chế độ độc tài phát xít Mỹ - Diệm (1954-1960)
1. Âm mưu của Mỹ - Diệm:
Hiệp định Giơnevơ được ký kết, đánh dấu bước thắng lợi vẽ vang của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Theo tinh thần hiệp định, vĩ tuyến 17 được lấy làm ranh giới quân sự tạm thời. Hai năm sau (20/7/1956) sẽ tiến hành tổng tuyển cử thống nhất đất nước.
Vốn đã có âm mưu thôn tính miền Nam từ trước, tháng 6 năm 1954, đế quốc Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về Sài gòn chuẩn bị thành lập chính phủ bù nhìn, tay sai nhằm chia cắt lâu dài nước ta.
Tại Củ Chi, địch xây dựng chính quyền quận, xã, hình thành bộ máy cảnh sát, xây dựng nhiều đồn bót tạo thành vành đai phòng thủ phía tây- bắc Sài gòn. Tiến hành thành lập các tổ chức thanh niên cộng hòa, phụ nữ liên đới. Đến tháng 12 năm 1957, địch tổ chức cái gọi là "ngũ gia liên bảo" để "dùng dân trị dân" và kiểm sát lẫn nhau.
Song song với việc phân loại dân để kiểm soát, địch tụng các toán công dân vụ (thực chất là mật vụ) luồn sâu vào xóm ấp để theo dõi và phát hiện cán bộ cách mạng.
Từ tháng 2 năm 1955, Diệm đã thành lập Uỷ ban tố cộng ở Trung ương, tỉnh, quận để chỉ đạo việc đánh phá phong trào cách mạng của quần chúng; mở các lớp tố cộng để ly gián trong nhân dân, gây nghi ngờ hoang mang với cách mạng; tiến hành cùng lúc vừa khủng bố vừa mua chuộc để rùn ép nhân dân.
Âm mưu của Mỹ- Diệm là đàn áp, khủng bố kể cả giết người, bắt bớ tra tấn bằng mọi nhục hình để dập tắt phong trào cách mạng ở Củ Chi, để người dân không dám che chở nuôi giấu cán bộ cách mạng.
Nhưng chúng đã lầm, vì càng gây ra tội ác bao nhiêu, thì càng làm cho nhân dân căm thù chúng sâu sắc bấy nhiêu.
2. Đảng lãnh đạo nhân dân Củ Chi đấu tranh đòi Mỹ- Diệm thi hành hiệp định Giơ-ne-vơ chống chế độ độc tài phát xít Mỹ-Diệm:
Sau khi ký hiệp định Giơ-ne-vơ, lực lượng vũ trang của ta từ vĩ tuyến 17 trở vào phải chuyển ra Bắc. So sánh lực lượng thay đổi có nhiều điểm bất lợi cho ta. Ta có ưu thế hơn hẳn địch về chính trị, về lực lượng quần chúng nhưng ta chưa có chính quyền và quân đội ở miền Nam.
Trước tình hình đó, Trung ương Đảng chủ trương miền Nam phải chuyển sang phương thức đấu tranh mới "Đấu tranh chính trị" và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là "Đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến, củng cố hòa bình, thực hiện tự do dân chủ... cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập. Đồng thời phải lãnh đạo nhân dân chống hành động khủng bố, đàn áp, phá cơ sở của ta, bắt bớ cán bộ ta và quần chúng cách mạng, giữ lấy những quyền lợi của quần chúng đã giành được trong thời kỳ kháng chiến" (1). Với phương châm đấu tranh là tranh thủ hoạt động hợp pháp kết hợp với nửa hợp pháp.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, xứ ủy Nam bộ đã được thành lập vào tháng 10/1954 do đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư. Đồng chí Phạm Khải (Ba Ka) được chỉ định là Bí thư tỉnh ủy Gia Định, cơ quan đóng tại Ba Sòng xã An Nhơn Tây. Tỉnh ủy đã tổ chức các cuộc họp để củng cố xây dựng lại hệ thống Đảng và các cơ sở quần chúng, chỉ định đồng chí Nguyễn Hồng Đào, làm bí thư huyện ủy Hóc Môn.
Tháng 11/1954, tỉnh ủy Gia Định họp hội nghị mở rộng tại xã Tân Phú Trung (Củ Chi) có các đại biểu huyện ủy và liên tỉnh miền Đông dự, để học tập Nghị quyết của Trung ương và xứ ủy về tình hình, nhiệm vụ và phương hướng công tác trong giai đoạn mới.
Huyện ủy Hóc Môn được củng cố (thời kỳ này Củ Chi còn trong sự lãnh đạo thống nhất của Huyện ủy Hóc Môn). Ban thường vụ huyện ủy có 3 đồng chí :
1. Nguyễn Hồng Đào - Bí thư
2. Nguyễn Văn Tạo - Phó Bí thư
3. Nguyễn Thanh Châu (Sáu Phiên) - Ủy viên Thường vụ
Ban chấp hành mới Đảng bộ Huyện Hóc Môn được kiện toàn và đề ra Nghị quyết trong giai đoạn này.
1. Củng cố sắp xếp bộ máy huyện ủy và một số bộ phận cần thiết cho huyện, bố trí huyện ủy viên và cán bộ huyện phụ trách xã.
2. Học tập Hiệp định Giơ-ne-vơ cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân thông suốt hiệp định, đồng thời củng cố cấp ủy ở các xã tùy theo số lượng đảng viên và địa bàn hoạt động.
3. Tích cực phát triển tổ chức công khai hợp pháp, bán hợp pháp, biến tướng tùy theo phong tục tập quán, điều kiện sinh hoạt kinh tế văn hóa của từng địa phương: theo số lượng quần chúng nhiều hay ít và điều kiện thuận lợi, khó khăn, khả năng công tác của cán bộ mà bố trí đảng viên, đoàn viên phụ trách.
4. Phương hướng nhiệm vụ:
- Lấy pháp lý hiệp định Giơ-ne-vơ mà đấu tranh bắt buộc địch phải thi hành nghiêm chỉnh các điều khoản
- Lực lượng đấu tranh là quần chúng
- Trong đấu tranh bảo vệ pháp lý của hiệp định, kết hợp đấu tranh dân sinh dân chủ, chống tố cộng, đòi hòa bình thống nhất Tổ quốc.
- Đối tượng đấu tranh: tề xã, quận, tỉnh, trung ương ngụy và ủy hội quốc tế.
- Trong đấu tranh áp dụng sách lược, tranh thủ cô lập bôn ác ôn, lôi kéo số lưng chừng, gây mâu thuẩn trong nội bộ chúng.
- Qua đấu tranh cần rút kinh nghiệm, quá trình đấu tranh không ngừng củng cố và phát triển lực lượng cách mạng để chuẩn bị lâu dài
- Các xã phải báo cáo thường xuyên về huyện và riêng những kỳ họp đặc biệt phải báo cáo ngay.
Để thực hiện nghị quyết trên, huyện ủy vạch ra những công tác cấp bách:
1. Mở đợt tuyên truyền rộng rãi về những thắng lợi vào các điều khoản cơ bản của hiệp định Giơ-ne-vơ, sắp xếp bố trí lực lượng cán bộ, chiến sĩ đi tập kết ra Bắc.
2. Rà soát lại danh sách cán bộ quê quán ở Hóc Môn, gồm những cán bộ có khả năng công tác, được nhân dân tín nhiệm, đang ở các cơ quan để tập trung lại, chuẩn bị xây dựng lực lượng cơ sở.
Đồng chí Lê Văn Hiền (Bảy Tấc), nguyên bí thư, chủ tịch xã An Nhơn Tây được đưa về làm Thường trực Huyện ủy.
Lúc này tổ chức cơ sở Đảng ở các xã Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây, Nhuận Đức, Phú Hòa Đông, Trung Lập, Phước Hiệp, Thái Mỹ, Tân An Hội, Phước Vĩnh An, Tân Thạnh Tây, Tân Thạnh Đông, Hòa Phú, Tân Phú Trung còn rất mạnh.
Sau khi có nghị quyết của Huyện ủy, mặc dù trong tình hình khó khăn, địch khủng bố dữ dội các nơi, đều tích cực thực hiện nghị quyết, phổ biến tuyên truyền học tập thắng lợi hiệp định Gienevơ. Nhân dân đấu tranh đòi thi hành hiệp định Gienevơ.
Ngày 30/1/1956, căn cứ của huyện ủy Hóc Môn tại ấp Cây Da xã Tân Phú Trung bị địch đột nhập bắt đồng chí Lê Văn Hiền (Bảy Tấc), Phó bí thư Thường trực và hai đồng chí bảo vệ. Chúng đưa ba đồng chí về Hóc Môn cho tên Chuối nhìn mặt rồi giam ở bót hàng Keo Gia Định. Tại đây chúng tra tấn dã man các đồng chí suốt 6 tháng rồi chuyển đi Trung tâm cải huấn Biên Hòa tiếp tục giam giữ.
Sau khi đồng chí Lê Văn Hiền bị giặc bắt, Huyện ủy đã bổ sung củng cố lại, đồng chí Võ Hồng Thuật cử làm bí thư, đồng chí Ba Đô (Ba Tứ), Phó bí thư thường trực, bổ sung đồng chí Võ Văn Gấm vào Thường vụ Huyện ủy.
Ngày 4/3/1956, ngụy quyền Sài gòn tổ chức bầu cử Quốc hội bù nhìn ở miền Nam, ta chủ trương chống cuộc bầu cử Quốc hội của địch. Đoàn biểu tình chia làm hai cánh: một cánh từ Phước An, Vườn Trầu, Suối Cụt...Kéo xuống nhà làng xã Phước Hiệp khoảng 500 người. Một cánh từ Bàu Điều- Trung Viết... Kéo lên khoảng 500 người, hai cánh gặp nhau tại Chợ Suối Cụt, đồng bào đấu tranh chất vấn ngụy quyền: "Bầu Quốc hội của ai ? và bầu để làm gì ?
Đoàn biểu tình do chị Mười ốm lãnh đạo công khai; quần chúng tràn vào trụ sở phá cuộc bầu cử, bọn làng, lính dân vệ hoảng sơ, năn nỉ xóa dịu đồng bào. Bấy giờ có một đoàn xe của bọn ngụy chạy ngang qua, chúng xả súng bắn vào đoàn biểu tình, một tên dân vệ ném lựu đạn làm chết 8 đồng bào và bị thương 56 người. Ta đòi bọn tề xã phải đưa các nạn nhân đi bệnh viện và tổ chức chôn cất những người chết. Ngay sau đó ta phát động căm thù, tố cáo tội ác man rợ của bọn ngụy. Một cuộc biểu tình quần chúng đông đảo (trên 2000 người) đưa tang những đồng bào hy sinh. Đơn tố cáo với hàng trăm chữ ký của dân đòi trừng trị kẻ giết người, đòi bồi thường tính mạng người bị sát hại, bảo đảm an ninh cho nhân dân.
Cuối năm 1956 để hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, ở các ấp, các xã Củ Chi, các lực lượng tự vệ vũ trang và nửa vũ trang của quần chúng nhân dân với danh nghĩa chống trộm cướp nhưng thực chất là để diệt ác trừ gian bằng các tổ chức bán hợp pháp như: tổ chống trộm cướp, tổ này đã bắt được binh lính ăn trộm, làm hạn chế sự xâm nhập đường đột ban đêm của bọn ác ôn; vũ khí đấu tranh lúc này chủ yếu là dụng cụ cầm tay như: tầm vông, thúng, giỏ...Cụ thể ở Phú Hòa Đông, trong năm 1956 nhân dân đã trừng trị một số tên tay sai ác ôn.
Năm 1957, Ngô Đình Diệm bắt đầu tiến hành lập các "khu trú mật". Thực chất của những khu này chỉ là những trại tập trung trá hình hòng kềm kẹp nhân dân và cô lập cách mạng.
Để chống lại chính sách tố cộng, ta có nhiều hình thức tổ chức, trong đó có hình thức dùng các cụ già để tố lại chế độ Diệm và lật tẩy chế độ "Cần lao nhân vị" của chúng. Năm 1957, chúng mở chiến dịch Trương Tấn Bửu để tố cộng, dùng quân đội bao vây bắt nông dân tập trung lại để tuyên truyền lừa phỉnh, hứa hẹn, bảo nông dân cần gì tới "quốc gia" để "quốc gia" giúp đỡ. Nhưng bọn chúng đã hoàn toàn thất bại vì quần chúng đã giáng cho chúng một đòn phủ đầu, phát biểu đòi hỏi đủ các thứ và chất vấn chính sách "Việt Nam Cộng hòa" làm cho chúng bí lối không giải quyết được, nên rút quân chuồn thẳng.
Tháng 2 năm 1957, hội nghị toàn thể ban chấp hành Tỉnh ủy lần thứ tư lại được tổ chức tại xã An Nhơn Tây, cho đến lúc này, tuy cơ sở Đảng đã bị đánh phá ác liệt và bị tiêu hao, nhưng vai trò lãnh đạo vẫn thông suốt từ trên xuống dưới.
Như vậy, từ cuối năm 1954 đến hết năm 1957, mặc dầu bị bọn địch khủng bố, đàn áp nhưng kết hợp với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và giới báo chí công khai đả kích kẻ thù ở đô thị. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Củ Chi liên tục đấu tranh đòi chính quyền tay sai và đế quốc Mỹ phải nghiêm chỉnh thực hiện Hiệp định Giơnevơ, chống khủng bố, chống bắt lính, chống đuổi nhà. Nhiều nơi trong huyện đã diễn ra những cuộc mít tinh, biểu tình, rải truyền đơn, căng biểu ngữ. Bên cạnh những hình thức đấu tranh chính trị, ở Củ Chi thời kỳ này đã xuất hiện hình thức đấu tranh vũ trang như diệt ác ôn, chỉ điểm. Đồng thời còn vận động binh lính ngụy đồng tình hưởng ứng theo đồng bào.
Đến năm 1958 mặc dù bị địch khủng bố, nhiều cơ sở Đảng và tổ chức quần chúng bị vỡ, cán bộ, đảng viên còn lại vẫn bám đất, bám dân, bám phong trào quần chúng. Được Đảng rèn luyện và giáo dục nên phong trào vẫn nổ ra liên tục. Ngày 8/3/1958 dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng trong Huyện kéo biểu tình chống khủng bố, đàn áp. ở xã Phú Hòa Đông, địch phải trả cho nhân dân trên 100 mẫu đất trồng cây ăn quả. Tháng 12/1958, nhân dân xã Bình Mỹ đấu tranh thắng lợi, địch phải trả lại số thuế mà chúng thu cả suất của những người đã chết cho 172 gia đình.
Đầu năm 1959, đồng bào Củ Chi mở các cuộc đấu tranh với bọn ngụy, được sự ủng hộ của binh sĩ nên buộc địch phải bắn chết một tên ác ôn có nhiều nợ máu với nhân dân, mong xoa dịu lòng căn phẫn của quần chúng. Kế tiếp cuộc đầu tranh chống vụ thảm sát Phú Lợi, nhân dân kéo biểu tình xuống tận Sài gòn đòi địch phải cứu chữa cho những người bị đầu độc. Đặc biệt, cuộc đấu tranh chống luật 10/59 của Ngô Đình Diệm, chống lê máy chém đi các xã hù dọa. Đồng bào đã kéo biểu tình lên quận nhân dịp chúng mổ bụng anh Từ Văn Sến, để đấu tranh, tên quận trưởng không dám giải quyết bảo đưa về, rồi nó đưa đơn lên Tỉnh trưởng Bình Dương. Tiếp đó vụ mổ bụng anh Trương Văn Ba ở Phú Hòa Đông, đồng bào mang xác anh Ba lên thẳng trên tỉnh Bình Dương để tố cáo và vạch mặt sự tàn ác của chúng, tên Tỉnh trưởng lánh mặt, binh sĩ ra mở cửa để đồng bào khiêng xác anh Ba vào, do sự đấu tranh quyết liệt của quần chúng, buộc tên Tỉnh trưởng phải ra mặt nhận bồi thường và đổi bọn ác ôn đi nơi khác. Sự đấu tranh của đồng bào Củ Chi đã thành nề nếp, có tổ chức hẳn hoi: Như phụ nữ tổ chức thành các đội, đấu tranh trực diện, các đội thiếu nhi, phụ lão ở nhà lo việc hậu cần giúp đỡ các gia đình và lo việc tang lễ cho những người bị giết hại, còn thanh niên sợ chúng bắt lính thì để ở nhà làm các công việc khác, không đưa ra đấu tranh. Ngoài đội đấu tranh trực diện với địch, còn tổ chức đội dự bị, chuẩn bị sẳn sàng để thay thế, hoặc khi cần sẽ hỗ trợ đấu tranh.
Ở Củ Chi, để thi hành luật 10/59 phát xít, giữa 1959 chúng đặt máy chém ngay giữa chợ Trung Hòa và Tân An Hội, rồi tuyên bố "nếu ai liên quan đến cộng sản thì sẽ mất đầu". Những tên ác ôn mặc quần áo rằn ri, được tổ chức thành đội ngũ đưa về hoành hành khắp các thôn ấp. Tên quận trưởng Bình ở Củ Chi khét tiếng tàn ác, một tên tay sai đắc lực cho Mỹ Diệm, đã chỉ huy bọn ác ôn mổ bụng, moi gan trên 280 người. Tại Đồng Găng, Mít Nài, Cây Sộp xã Tân An Hội, Gót Chàng, Cổ Cò, Gò Nổi xã An Nhơn Tây, Phú Hòa Đông và biết bao nhiêu nơi khác đã thấm máu các chiến sĩ và đồng bào, ghi lại biết bao tội ác của bọn mặt người dạ thú ấy. Cứ tính từ năm 1955- 1959 có trên 560 người dân Củ Chi bị quân thù moi gan, mổ bụng. Ngoài ra kẻ thù còn sát hại nhân dân bằng cách bỏ vào bao tải rồi cột đá ném xuống sông. Gần một ngàn người bị chúng bắt bớ tra tấn bằng mọi nhục hình ở các trại giam Phú Lợi, Biên Hòa, Sài gòn hay bị đày đi Phú Quốc, Côn Đảo.
Mục đích của những cuộc khủng bố, đàn áp dã man, hoặc gây ra những cảnh tượng khủng khiếp... của địch nhằm làm cho nhân dân ở đây sợ sệt, không dám che chở, nuôi giấu cán bộ cách mạng nữa. Nhưng chúng đã lầm, vì càng gây ra tội ác bao nhiêu, thì càng làm cho nhân dân Củ Chi căm thù chúng sâu sắc bấy nhiêu.
Khoảng giữa năm 1959, tình hình có chuyển biến, xu hướng đấu tranh vũ trang phổ biến để phá thế kềm kẹp của địch, Củ Chi lập những đội thanh niên vũ trang tự vệ từ 3- 7 người, chủ yếu là để bảo vệ cơ sở trong huyện, xã. Nhờ các tổ chức này nên chống được các cuộc ruồng bố lẻ tẻ, gây được sự tin tưởng trong nhân dân.
Để làm hậu thuẩn cho phong trào ở địa phương, vừa bảo vệ cho Khu ủy Sài gòn- Gia Định, lúc bấy giờ hoạt động trên địa bàn Củ Chi, các cấp ủy cơ sở đã sinh hoạt, tập hợp các chiến sĩ, các đảng viên, đoàn viên, đủ để thành lập một tiểu đội vũ trang vào tháng 10/1959. Vì quân số có 13 người, đơn vị lấy số hiệu 13 để đặt tên.
Cuối năm 1959, các xã trong huyện đã bước vào chuẩn bị gấp rút, tổ chức tự vệ mặt và sắm sửa vũ khí. Vào tháng 12/1959, tại Củ Chi thành lập trung đội vũ trang đầu tiên của khu mang một cái tên hợp pháp là Cao- Hòa- Bình (Cao Đài- Hòa Hảo - Bình Xuyên). Thực tế trung đội này chỉ có 2 tiểu đội. Hầm vũ khí với 70 cây súng, do đồng chí Nguyễn Hồng Đào Bí thư Huyện ủy Hóc Môn chỉ đạo, chôn giấu trước đây, tại góc rừng Ba Sòng xã An Nhơn Tây, lúc này được đào lên trang bị cho lực lượng vũ trang của khu vừa mới ra đời.
Kế thừa chính sách chia để trị của thực dân Pháp, trong âm mưu của chủ nghĩa thực dân mới, Mỹ ngụy đã chia nhỏ địa bàn để dễ kiểm soát và hòng tiêu diệt hết lực lượng cách mạng.
Do tình hình thực tế chiến trường lúc này đòi hỏi, để đối phó với âm mưu của địch và tiện cho việc chỉ đạo phong trào, khoảng cuối năm 1959, Huyện ủy Hóc Môn được Tỉnh ủy chấp thuận đã tách thành 2 Huyện ủy: Huyện ủy Hóc Môn và Huyện ủy Củ Chi. Huyện ủy Hóc Môn do đ/c út Hội làm Bí thư, Huyện ủy Củ Chi do đồng chí Huỳnh Văn Rành (Ba Rành- Ba Nam) làm Bí thư, nhưng chỉ trên một tháng đồng chí hy sinh, đồng chí Tư Đuông (tức Lược) được phân công tiếp tục nhiệm vụ này. Để lãnh đạo phong trào cách mạng của nhân dân địa phương, ngay sau khi thành lập Ban chấp hành Đảng bộ Củ Chi đã nhanh chóng kiện toàn tổ chức thành lập các ban ngành, củng cố các cơ sở quần chúng như thanh niên, nông hội, phụ nữ và tăng cường cán bộ từ huyện xuống các xã để gây dựng lại cơ sở, phát triển đảng viên để đảm bảo cho sự lãnh đạo phong trào. Nhờ vậy mà phong trào đấu tranh của nhân dân ngày càng phát triển. Từ cuối năm 1959 ở Củ Chi đã xuất hiện hình thức đấu tranh vũ trang.
Sau khi có Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ 15 (tháng 1/1959) về đường lối cách mạng Miền Nam. Tháng 11/59 Xứ ủy họp hội nghị lần thứ 4 đề ra nhiệm vụ cụ thể cho Đảng bộ Nam Bộ.
Với những Nghị quyết của Trung ương và của Xứ ủy, trận chiến thắng Tua Hai của quân giải phóng ở Tây Ninh (25/01/1969) đây là trận chiến thắng vang dội đầu tiên làm nức lòng nhân dân Sài gòn-Gia Định. Đặc biệt là cuộc "Đồng Khởi" của nhân dân Bến Tre tứ 17/01/1960 làm cho ngụy quyền sụp đổ từng mảng lớn đã tác động mạnh đến Gia Định.
Đảng bộ Củ Chi triển khai Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng và Nghị quyết của Xứ ủy Nam bộ xuống tận cán bộ, đảng viên và quần chúng. Sau khi được học tập Nghị quyết Trung ương, chấp hành chỉ thị của Tỉnh ủy Gia Định Đảng bộ và nhân dân Củ Chi bắt tay ngay vào công tác chuẩn bị cơ sở Đảng được phát triển, các tổ chức quần chúng được củng cố, các đội du kích được chấn chỉnh lại, nhân dân tích cực tham gia, chuẩn bị sẳn sàng chiến đấu.
Trước ngày Đồng khởi, cơ sở Đảng ở Củ Chi đã phát triển mạnh, hầu hết các xã đều có chi bộ Đảng, một số xã có chi bộ khá như: Trung Lập, Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây, Phú Hòa Đông, Huyện ủy được chuyển về đóng tại Phú Mỹ Hưng (1) để lãnh đạo phong trào. Mọi công việc chuẩn bị cho Đồng khởi đã xong, ngày 23 tháng 2 năm 1960, Huyện ủy Củ Chi phát lệnh Đồng khởi với khẩu hiệu: "diệt ác, phá kềm, rạt tề giải phóng nông thôn".
Khi có phong trào nổi dậy (1960) đường lối đấu tranh của Huyện ủy bằng hai mũi chính trị và vũ trang kết hợp song song với nhau, lúc này Huyện ủy chọn 3 xã làm thí điểm để phát động phong trào nổi dậy của quần chúng: 3 xã đó là Phước Vĩnh An, Tân Phú Trung, Tân An Hội, từ đây rút kinh nghiệm cho toàn huyện để dấy lên một phong trào cách mạng mới trong toàn huyện. Huyện ủy đã cử 3 đoàn cán bộ xuống 3 xã nói trên, để lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp. Nhiệm vụ chủ yếu của các đoàn thể, là làm sao đẩy được phong trào đấu tranh vũ trang đi kịp với phong trào đấu tranh chính trị. Đồng thời kết hợp chặt chẽ 2 mũi tiến công địch. Đẩy đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, đã phát động được phong trào cách mạng rầm rộ, tổ chức được nhiều cuộc hội nghị, trong đó chủ yếu là để tập hợp được lực lượng thanh niên và hướng dẫn họ tự tạo ra vũ khí để đánh địch. Thế là phong trào tự tạo vũ khí thô sơ để đánh địch được phát động trong lực lượng thanh niên, bằng những ống tuýp xe đạp, sắt vụn... những sáng kiến đánh địch được nẩy nở như: thanh niên đón xe đò đột nhập vào bót với vũ khí thô sơ để diệt ác, phá kềm, như ở Phước Vĩnh An dân quân tự vệ xóm Cây Bài ấp Vĩnh Cư đã tổ chức ngụy trang xe lam khi đi qua bót địch, bỗng dừng lại xuống xe xông vào cướp đồn giặc, bọn địch hoảng sợ bỏ chạy ta thu toàn bộ vũ khí.
Từ việc chỉ đạo điểm, được nhân ra diện rộng "Đồng khởi" trong toàn huyện, hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng bộ Củ Chi, nhân dân từ các ấp, các xã, trẻ, già, trai, gái đều nhất tề đứng lên hưởng ứng tham gia diệt ác, phá kềm. Tiếng thùng thiếc, nổi đồng, thanh la, chen lẫn tiếng nổ rầm trời của khí đá hòa cùng tiếng chuông chùa vang dội khắp nơi. Một khí thế quần chúng vùng dậy mạnh mẽ bừng bừng chưa từng có. Điển hình đêm 20/3/1960, xã Nhuận Đức, Tân Thông Hội và một số xã khác hưởng ứng lệnh của Huyện ủy, suốt đêm đã đánh mõ, tù và... khiến địch rất lo sợ.
Sang ngày 21/3/1960, đồng bào Củ Chi biểu tình tuần hành ở lộ 7, lộ 15, chỉ trong vòng một tuần lễ nhân dân đã vùng lên diệt một số trưởng ấp, xã trưởng ác ôn hay ủy viên quân sự của địch để giải phóng xóm làng. Có thể nói toàn dân Củ Chi đã vùng lên đấu tranh, vừa dùng bạo lực chính trị, vừa dùng bạo lực vũ trang, từng tự vệ một xông vào các đồn bót, trạm gác của địch cướp súng xé cờ địch, treo cờ ta. Cuộc đấu tranh diễn ra dưới nhiều hình thức rất phong phú, nơi có điều kiện và thời cơ thì bức rút, bức hàng. Đặc biệt một số xã ở phía Bắc đến ngày 24/3/1960 trước khí thế đấu tranh của đồng bào, bọn tề ấp Bầu Tròn bỏ chạy. Sau đó du kích xã Nhuận Đức, Phú Hòa Đông vây bót cầu Bến Mương, lính đồn rút chạy. Xã Nhuận Đức hoàn toàn giải phóng cùng với 2 xã khác là: An Nhơn Tây và Phú Mỹ Hưng cuộc nổi dậy của nhân dân các xã này nổ ra rất mạnh mẽ làm cho bọn tề trong ngụy quyền phải bỏ chạy. Giải phóng xong ta chuyển sang chiến tranh du kích. Trước khí thế Đồng khởi sôi sục của nhân dân buộc bọn địch phải tập trung giải quyết. Từ ngày 4 đến ngày 7/9/1960, địch bắt thanh niên chặt đầu mổ bụng, vứt xác trên đường số 7 ở Láng Chà Vơ.
Trước tình hình đó, đồng bào Củ Chi kéo biểu tình đấu tranh lên quận, tỉnh và kéo thẳng về Sài gòn đấu tranh tại nha cảnh sát và đòi giáp mặt tên trưởng nha cảnh sát để đồng bào kể tội và đòi bồi thường. Tên trưởng nha cảnh sát phải ra mặt, và hứa hẹn để xoa dịu, giai đoạn này địch càn quét mạnh với lực lượng từ một tiểu đoàn đến trung đoàn, lực lượng vũ trang của nhân dân còn yếu nên chưa đánh tan chúng nổi, mà phải dùng đấu tranh chính trị liên tục để ngăn chặn sự đàn áp dã man của địch. Ngày 12/9/1960 du kích phục kích một đoàn xe lính địch từ trung tâm huấn luyện Trung Hòa đi cầu Công sở. Kết quả 4 tên cố vấn Philipin và 5 tên lính bị diệt, 3 tên khác bị thương, thu 5 súng. Ngày 15/9/1960, du kích An Nhơn Tây kết hợp với C7 của tỉnh Gia Định đánh tiêu diệt 6 tên. Ngày 19/9/1960 dân vệ tại lộ 7 thu 17 súng, bắt sống 6 tên. Ngày 19/9/1960 các đồn điền cao su Bà Hộ, Si Cô Ba Lăng, ở Phú Hòa Đông, Nhuận Đức và Tân An Hội công nhân đình công 17 ngày. Cuộc đình công chống đàn áp bóc lột, chống bắt bớ, bắn giết công nhân, đồng bào Củ Chi hưởng ứng đấu tranh mạnh mẽ, được tiếng vang khắp Sài gòn -Gia Định và kêu gọi các nơi hưởng ứng có kết quả.
Sau phong trào "diệt ác, phá kềm, rạt tề giải phóng nông thôn" tiến lên phong trào giành quyền làm chủ tại thôn xóm. Sau 3 tháng nổi dậy ở Củ Chi, một số nơi đã trở thành căn cứ của cách mạng, như lõm Cây Da -Tân Phú Trung, ở đây có địa đạo, lõm Bà Giả ở Phước Vĩnh An, lõm Cầu Xa ở Tân Thạnh Đông... Nhìn chung trong toàn Huyện chỗ nào cũng có căn của ta, kẻ địch chỉ kiểm soát một phần không đáng kể.
Cuối năm 1960 các xã Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây, Nhuận Đức, Trung Lập, Phú Hòa Đông, một trong những căn cứ địa của tỉnh Gia Định trong thời kỳ kháng Pháp, đã từng chiến đấu kiên cường với địch thì bây giờ đã nhanh chóng vùng lên phá tan ách kềm kẹp giành quyền làm chủ. Nhiều xã khác như Bình Lý, Tân Mỹ, Tân Thạnh Tây, An Phú xã... quần chúng cũng đã nổi dậy giành quyền làm chủ. Trước sức mạnh của quần chúng kẻ thù đã phải co lại không dám hung hăng như trước nữa và cũng từ đó, phong trào văn nghệ quần chúng được dấy lên, mà cái nôi là xã Phú Mỹ Hưng. Đây là món ăn tinh thần bổ ích nhằm động viên, cổ vũ, phản ánh tình hình tăng gia sản xuất, lòng dũng cảm chiến đấu hăng say của quần chúng.
Cuộc Đồng khởi 1960 của quân và dân Củ Chi là sự tiến công cách mạng của lực lượng quần chúng vào thế kềm kẹp, o ép của quân thù. Bằng cuộc đồng loạt nổi dậy này, quân dân Củ Chi đã phá tan và làm rệu rã hơn 2/3 đồn bót trong toàn huyện, cùng hệ thống kềm kẹp của chính quyền tay sai mà bấy lâu nay chúng đã dầy công xây dựng.
Tóm lại, từ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, Mỹ và bôn tay sai ở Củ Chi đã không từ một thủ đoạn thâm độc, dã man nào nhằm tiêu diệt cho được cơ sở Đảng và phong trào cách mạng của Đảng bộ, nhân dân Củ Chi. Nhưng nhân dân Củ Chi vốn có truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường luôn có Đảng lãnh đạo, mặc dù bị kẻ địch khủng bố, nhiều cán bộ, đảng viên bị hy sinh, nhiều cơ sở Đảng bị phá vỡ. Nhưng suốt thời kỳ gọi là khó khăn nhất của cách mạng. Đảng bộ Củ Chi luôn luôn bám dân, bám đất, bám phòng trào, vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, ngọn lửa cách mạng của người dân Củ Chi không bao giờ bị dập tắt.
Thời kỳ năm 1954 đến cuối năm 1959 là giai đoạn đấu tranh chính trị, đồng thời súc tích lực lượng, chuẩn bị thời cơ, tiến lên giành thắng lợi mới. Chính thắng lợi của huyện Củ Chi đã chứng minh đầy đủ ý nghĩa đó, nó đã góp phần cùng quân, dân Miền Nam đánh bại cuộc chiến tranh không tuyên bố của đế quốc Mỹ, đẩy chúng bước đầu vào con đường bị động chiến lược trong âm mưu xâm lược nước ta.
II. Đảng bộ Huyện Củ Chi lãnh đạo nhân dân góp phần đánh bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ (1960- 1965):
1. Âm mưu và thủ đoạn mới của kẻ thù:
Đánh giá tình hình Nam bộ sau Đồng khởi địch phải thừa nhận rằng "vào cuối năm 1960 toàn bộ vùng nông thôn Nam phần và một số vùng phía Bắc Sài gòn bị cộng sản kiểm soát quá một nửa và bao vây Sài gòn (1).
Ngày 16/9/1960 tòa Đại sứ Mỹ ở Sài gòn đã phải điện khẩn cấp về Bộ ngoại giao Mỹ". Mối nguy hiểm còn nghiêm trọng hơn nữa là việc Việt cộng dần dần mở rộng quyền kiểm soát ở nông thôn, nếu những tiến bộ hiện nay của cộng sản cứ tiếp diễn thì có nghĩa là sẽ mất Việt Nam vào tay cộng sản".
Do dự, tính toán hơn một năm, trước tình hình trên, đế quốc Mỹ buộc phải chuyển chiến lược "tố cộng, diệt cộng", một chiến lược dựa vào hình thức cảnh sát là chủ yếu, sang chiến lược "chiến tranh đặc biệt" còn gọi là "chiến tranh chống lật đỗ" nhằm đánh bại phong trào cách mạng đã phát triển thành chiến tranh du kích. Với chiến lược này, chúng thực hiện chương trình bình định trong 18 tháng mà biện pháp cơ bản của nó là lập "ấp chiến lược" để dồn dân vào vùng chúng kiểm soát".
Công thức của chiến tranh đặc biệt là: quân ngụy cộng vũ khí Mỹ đặt dưới sự chỉ huy của cố vấn Mỹ. Việc phòng thủ Sài gòn-Gia Định của địch ngày càng chặt chẽ bằng cách thành lập các vùng chiến thuật, biệt khu, tiểu khu và chi khu nhằm tạo điều kiện bình định và càn quét có hiệu quả. Vì Củ Chi là cửa ngõ phía Tây Bắc Sài Gòn, cho nên thời kỳ này chúng tăng cường mở những đợt hành quân càn quét để đánh phá cơ sở cách mạng và làm tiêu hao lực lượng vũ trang của ta.
Ở Gia Định, chương trình "ấp chiến lược" của địch triển khai vào tháng 8 năm 1961 trong đó xã Tân An Hội (Củ Chi) là nơi thí điểm sau đó chúng làm quyết liệu quy mô trên toàn huyện với việc "bứng" "hốt", "gom", "khoanh" dân. Lực lượng chủ yếu trực tiếp gom dân là bảo an, dân vệ và cán bộ "bình định". Xe ủi đất, xe cơ giới được huy động để san ủi, đắp đê. Nhân dân bị bắt đốn tre, tầm vông làm hàng rào, vót chông... Trong thời kỳ này, chúng xây dựng ở Củ Chi gần 30 ấp chiến lược. Những ấp chiến lược này chúng thường tập trung xây dựng dọc theo các trung lộ 22, 7, 8 và 15.
2. Đảng bộ Huyện Củ Chi đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị và vũ trang:
Huyện Củ Chi là nơi địch gặp sức chống trả mạnh nhất nên việc triển khai ấp chiến lược có chậm hơn các nơi khác. ở Phú Hòa Đông nổ ra cuộc biểu tình của 500 người vây bót địch 2 ngày liền, đòi địch không được càn quét, bắn phá bừa bãi, để nhân dân đi lại làm ăn, đòi thường nhân mạng, thiệt hại cho người chết và người bị thương trong các vụ đàn áp. Hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, các lực lượng vũ trang địa phương đánh thiệt hại 3 đoàn "bình định nông thôn", buộc chúng phải co lại ở Phước Hiệp, An Nhơn Tây, Phước Vĩnh An, đánh tiêu hao 1 đại đội bảo an ở Trung An (tháng 6 năm 1961), đánh thiệt hại đồn An Nhơn Tây (ngày 30 tháng 8 năm 1961)… Nhiều tên tay sai đắc lực nhất ở các bon tự sự ấp chiến lược ở Củ Chi bị trừng trị.
Trước đó, ngày 4 tháng 4 năm 1961 huyện tổ chức một cuộc đấu tranh thống nhất toàn huyện, trực diện với tề xã, đòi dân sinh dân chủ. Đoàn quần chúng xã Phước Thạnh gồm trên 3000 người, phần lớn là các má, các chị biểu tình kéo dọc theo quốc lộ 22 đến nhà làng Suối Cụt với đội ngũ chỉnh tề, có lực lượng tự vệ tham gia. Đoàn xe quân sự địch tuần tra, bắn uy hiếp, đoàn biểu tình nằm xuống, xe qua, tất cả lại đứng dậy đi tiếp. Toán dân vệ gác cản đường. Một tên ác ôn ném lựu đạn vào đoàn biểu tình làm 5 người chết, 59 người bị thương, mọi người vô cùng căm phẩn. Cuộc đấu tranh chuyển sang mục tiêu đòi địch chấm dứt khủng bố chôn cất những người bị giết, chữa chạy và bồi thường cho người bị thương, bị chết.
Đoàn An Nhơn Tây gồm 200 chị em các xã An Nhơn Tây, Nhuận Đức, Phú Mỹ Hưng, Phú Hòa Đông... do chị Hai Bằng lãnh đạo, tuần hành kéo về nhà làng xã Phú Hòa Đông, nơi tập trung Ban hội tề 4 xã lưu vong sau Đồng khởi, 5 thanh niên trong đoàn bị chúng bắt đi, ta đưa thêm lực lượng ra đấu tranh, địch buộc phải băng bó cho 5 người bị thương và thả 5 thanh niên bị bắt.
Tháng 6 năm 1961, huyện ủy Củ Chi lại tổ chức cuộc đấu tranh lớn lần thứ hai trên toàn huyện, 13000 người đấu tranh trực diện, 2000 người phía sau làm giao liên, hậu cần và dự bị. Lực lượng phía trước chia làm 5 mũi tiến vào quận lỵ, mũi chính diện là Tân An Hội và Phước Hiệp. Có nhiều đợt quần chúng bị địch đàn áp, đánh dập, tạm lui để tập họp thêm, tiếp tục cuộc đấu tranh với các khẩu hiệu đòi: chấm dứt khủng bố, giết người, bồi thường nhân mạng, chống bắt lính, hoãn miễn quân dịch... Cuộc đấu tranh được nhiều binh sĩ địch đồng tình, hạ uy thế địch, hạn chế khủng bố.
Cùng với mũi đấu tranh chính trị, mũi quân sự đang đà phát triển, nổi bật là phong trào, làm vũ khí thô sơ tự tạo mìn, trái đánh địch, mạnh nhất là ở xã Phú Mỹ Hưng. ở Xóm Huế, 10 thanh niên tự bán xe đạp, mua sắm dụng cụ và ống sắt, làm được 10 súng tự chế để diệt ác và biểu dương lực lượng.
Cuối tháng 7 năm 1961, địch càn quét hai xã An Nhơn Tây, Phú Mỹ Hưng, giết 23 người và bắt đi một số dân. Lập tức nhân dân các xã xung quanh tập trung kéo biểu tình lên quận, buộc tên quận trưởng phải ra tiếp và hứa chuyển yêu sách đoàn biểu tình lên tỉnh Bình Dương. Nhiều trận đánh có kết hợp hầm chông, hố đinh, địa đạo đã đẩy lùi hoặc chặn đứng cả tiểu đoàn địch như các trận ở các xã Phú Hòa Đông, Phú Mỹ Hưng, Nhuận Đức, Trung An.
Việc giáo dục các gia đình binh sĩ địch vận động chồng con, em trở về kết hợp với các hình thức kêu gọi ở đồn bót cũng như thu được kết quả. Nhiều binh sĩ địch bỏ ngũ trở về nhà làm ăn, hoặc theo du kích. Lực lượng cách mạng ở Củ Chi phát triển khá trong những năm đầu của chiến tranh cách mạng: số đảng viên từ 200 lên gần 500; gần một trăm phần trăm phụ nữ vùng giải phóng vào Hội phụ nữ giải phóng; lực lượng tập trung huyện được một đại đội; vùng gần địch có du kích mật, trên 1000 thanh niên xung phong tòng quân vào các lực lượng cấp trên, vùng giải phóng bắt đầu có trường học, trạm y tế...
Tháng 3 năm 1962 đơn vị bộ đội tập trung quân khu K17 được bổ sung, quân số lên trên 300 và biên chế thành đoàn Quyết Thắng. Hơn một tháng sau, ngày 7 tháng 7 năm 1962 một bộ phận đoàn Quyết Thắng tiêu diệt 1 đại đội bảo an ở Rọc Mía xã Phước Hiệp, Củ Chi thu 10 súng.
Thực hiện quyết tâm "mang nắp hầm bí mật vào tận ấp chiến lược" các Đảng bộ, cấp ủy đều có kế hoạch phát triển thực lực cách mạng tại chổ, kể cả lực lượng võ trang bí mật bên trong ấp chiến lược. ở Tân Thạnh Tây, chi ủy phân công 2 chi ủy viên và 1 du kích trang bị 3 súng về bám sát khu địch tập trung dân, 7 đêm liền các đ/c bò vào sát bót địch, phục kích bắn tỉa. Địch buộc phải phân tán đi nằm rãi rác bên ngoài, lợi dụng cơ hội đó, các đ/c đột nhập vào ấp chiến lược, móc nối với một cơ sở cũ của ta bị địch lùa vào ấp trước kia hướng dẫn cách đào hầm bí mật. Đã có hầm các đồng chí bám luôn trong ấp, tiếp tục móc nối với các cơ sở cũ khác, phát triển cơ sở mới, tổ chức tự vệ mật chỉ đạo mọi việc ngay tại chỗ. Thực tế việc chống phá ấp chiến lược đã diễn ra như điều đã dự đoán: giằng co, lâu dài, quyết liệt. Địch xây, ta phá, địch lại xây... Quyết liệt nhất ở các địa bàn xung yếu như Bình Mỹ, Phú Hòa Đông, Trung Lập...
Nhiều đêm, có lực lượng vũ trang đột nhập vào ấp, quần chúng nổi mõ khua thùng, chỉ bắt tề, điệp, ác ôn rồi cùng nhau cắt rào kẻm gai, nhổ cọc sắt, đốt bãi chông, cuốc vỡ bờ đê... Chúng lại tung quân bắt dân dựng, lại hàng rào, đắp lại bờ đê. Ta lại tổ chức đột nhập vào ấp, lực lượng tại chổ lại nổi dậy phá ấp. Nhân dân nhiều nơi quyết không rời đất nhà của mình, điển hình như các ấp Xóm Trại, Giàn Bầu, Gò Nổi, Ba Sòng, Ràng, Sa Nhỏ, Đồng Lớn... ở Tây Thạnh Tây, Trung Lập và nhiều nơi khác đồng bào còn cản cả xe ủi đất của địch.
Ở ấp chiến lược Mũi Chùa xã Tân An Hội, du kích bên ngoài phối hợp với lực lượng mật bên trong đánh tan đôi dân vệ và một bộ phận, bảo an, nhân dân nổi dậy phá ấp trở về quê cũ. Tháng 9 năm 1962 du kích, bộ đội địa phương Củ Chi vũ trang tuyên truyền 7 lần, 3 lần tập kích đồn bót, 9 lần phục kích giao thông, hai lần đánh càn, diệt làm bị thương 108 tên địch (có cố vấn Mỹ), bắt sống 10 tên phá 7 ấp chiến lược. Du kích Nhuận Đức bắt sống 1 tàu giặc chở hàng trên sông Sài gòn.
Trong đấu tranh giằng co, quyết liệt, du kích mật, tự vệ mật đã phát triển và có vai trò lớn trong diệt ác, phá kềm, một nội dung lớn trong đấu tranh "phá ruỗng ấp chiến lược". Hầu hết các xã có tiểu đội tập trung.
Trong lúc đó, ngày 2 tháng 1 năm 1963 trận ấp Bắc tại xã Tân Phú huyện Cai Lậy Tỉnh Tiền Giang không chỉ gây thiệt hại cho quân đội Sài gòn về người, trực thăng, thiết giáp, điều quan trọng hơn là nó chứng minh khả năng các lực lượng võ trang giải phóng đánh bại ngay từ đầu hai chiến thuật của Mỹ "trực thăng vận" và "thiết xe vận". Trận ấp Bắc là dấu hiệu phá sản của chiến lược chiến tranh đặc biệt. Trên từng khu vực, quyền chủ động chiến trường đã lần lần thuộc về lực lượng cách mạng. Năm 1963 tiểu đội nữ du kích Củ Chi do chị Nguyễn Thị Nhở chỉ huy được thành lập, được giao nhiệm vụ hoạt động trong vùng địch kiểm soát. Trẻ em cũng rất hăng hái đánh giặc em Trần Văn Chẩm với khẩu "côn" trừng trị tên ác ôn Chưng giữa ban ngày tại xã Phước Vĩnh An... Các lão ông, lão bà là lực lượng quan trọng trong các công việc vót chông, đào hầm, đào địa đạo, đặt cạm bẫy và hậu cần tại chổ...
Các lõm du kích, vùng giải phóng tiếp tục mở rộng ở nhiều xã. Cuộc đấu tranh chống phá ấp chiến lược của nhân dân diễn ra thật nhiều cách, nhiều vẻ, tùy cơ ứng biến. Không chấp nhận các tổ chức của địch lập ra, không nhận vũ khí của địch hoặc nhận để chờ dịp "gậy ông đập lưng ông", nhận để vứt bỏ hoặc theo luôn khi lực lượng cách mạng xuất hiện; đòi ra ấp từng giờ, từng buổi để về đất cũ sản xuất, rồi cất chòi ở ban ngày dần dần ở lại cả ban đêm, cuối cùng ở lại luôn trên vườn đất cũ, đào hầm nuôi giấu cán bộ, du kích, làm trinh sát mật...Các ấp xã chiến đấu được xây dựng ngày càng vững chắc, việc nạo vét, sửa chữa hầm chông, hào giao thông, địa đạo cũ, đào thêm địa đạo mới... phát triển rất mạnh. Điều quan trọng là hầm chông hố đinh, cạm bẫy ai cũng làm được và gây ra tác động lớn về tâm lý và cả hiệu quả thực tế; địch rất sợ những cái bất ngờ, khủng khiếp đó, không dám lùng sục, thậm chí buộc phải nghe theo lời chỉ dẫn của dân. Trên thế trận xã ấp chiến đấu, làng ngầm, ta có thế phản kích, tấn công lực lượng địch đông hơn hẳn.
Du kích xã Phước Vĩnh An liên tục bao vây tấn công uy hiếp một tiểu đoàn địch vừa đến đóng, buộc tiểu đoàn này rút đi. Du kích xã Phú Hòa Đông, chặn đánh và buộc một đại đội địch bỏ dỡ cuộc càn vào ấp Phú Thuận... Tháng 6 năm 1963, một tiểu đoàn địch và một đội bình định vào xã Trung Lập để cào nhà gom dân. Du kích tiếp tục đánh. Nhân dân giáp mặt địch đấu lý, giải thích, phân hóa giữa chủ lực và cán bộ bình định. Cuối cùng chúng bị loại gầm cả trăm tên mà không gom được, tiểu đoàn rút lui, đoàn bình định rã đám. Du kích Phước Hiệp được đồng bào trong ấp chiến lược giúp đỡ, cải trang làm lính "biệt động quân", bất ngờ tấn công hai trung đội binh bảo an. Cũng vào lúc này, địch mở cuộc cào lớn vào xã Trung Lập, Nhuận Đức, quân dân Củ Chi đánh trả suốt 19 ngày đêm buộc địch phải rút lui.
Ngày 15 tháng 9 năm 1963, địch càn vào An Nhơn Tây tại hai ấp Xóm Mới và Bàu Đưng, 9 du kích ấp chặn đứng đại đội địch, loại khỏi vòng chiến 17 tên.
Ngày 20 tháng 10 năm 1963, địch lại tập trung 5000 quân, có xe bọc thép M113, tàu xuồng chiến đấu và máy bay yểm trợ, mở cuộc càn quét lớn vào An Nhơn Tây với ý định chiếm đất, gom dân. Du kích bám chúng ngay từ đầu, sau 13 ngày đêm chiến đấu, giết và làm bị thương 71 tên, bắn rơi 1 máy bay lên thẳng, thu nhiều súng. Ta hy sinh 5, bị thương 8. Cùng lúc đó, nhiều xã thuộc Củ Chi dồn dập tấn công địch. Tân Thông Hội diệt đồn Tiền và đồn Hậu, Tân An Hội diệt đồn Bàu Tre, Tân Thạnh Tây vây đồn buộc 13 tên địch ra hàng, Phước Vĩnh An, Thái Mỹ, Tân Phú Trung, Thị trấn Củ Chi... loại khỏi vòng chiến trên trăm tên địch.
Cuối năm 1963, ngay khi Diệm, Nhu bị giết nhiều ấp chiến lược bị ta phá banh hoặc làm mất hiệu lực, một số ấp ta làm chủ vào ban đêm. Tháng 12 năm 1963, Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương vạch ra nhiệm vụ trước mắt cho cách mạng miền Nam là: ". . . . . ra sức phấn đấu xây dựng lực lượng chính trị và vũ trang (nhất là lực lượng vũ trang) tiến lên đánh tiêu diệt và làm tan rã từng bộ phận quân đội địch, phá phần lớn các ấp chiến lược, làm chủ rừng núi và phần lớn xã, thôn vùng đồng bằng, tạo điều kiện cho phong trào quần chúng ở đô thị nổi dậy mạnh mẽ, đẩy chế độ Mỹ và tay sai đến chổ khủng hoảng dâu sắc hơn và mau suy sụp hơn, giành được chủ động về chiến lược, tạo ra thời cơ tốt để giành những thắng lợi quyết định về ta".
Trung ương Cục ra chỉ thị quán triệt Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 9, xác định nhiệm vụ năm 1964, quyết tâm tạo điều kiện cần thiết để sang năm sau có thể mở ra cục diện to lớn của phong trào, tiến lên giành thắng lợi quyết định.
Thường vụ Trung ương Cục có chỉ thị ngày 18 tháng 3 năm 1964 về đẩy mạnh tấn công địch sau khi Diệm bị lật đổ... Nhiệm vụ trước mắt của ta là chủ động đẩy mạnh tấn công chính trị, quân sự, binh vận đều khắp trên cả ba vùng, đặc biệt tập trung sức chống bình định, chống càn quét, chống lập ấp chiến lược...
Chấp hành Nghị quyết của Trung ương và Trung ương Cục, khu ủy Sài Gòn - Gia Định chủ trương; tích cực xây dựng 3 thuế quan cả về số lượng và chất lượng, chú trọng chất lượng; phát triển phong trào du kích chiến tranh, đẩy mạnh tác chiến tiêu hao, tiêu diệt từng đơn vị nhỏ của địch, đối tượng là lực lượng kềm kẹp xã ấp phường khóm, lực lượng bảo an dân vệ; phối hợp các hoạt động giữa nông thôn và đô thị, thực hiện kềm địch để diệt địch. Kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang tạo thành sức mạnh tổng hợp tiến công địch liên tục, đều khắp; phá thế kềm kẹp của địch ở các ấp chiến lược, bung dân về vườn đất cũ sản xuất, phát triển thực lực cách mạng, đồng thời ra sức chuẩn bị mọi mặt một cách khẩn trương, chu đáo, sẳn sàng đáp ứng khi có thời cơ.
Trên vùng Củ Chi, các cuộc đấu tranh chính trị quần chúng có kết hợp hoạt động của các lực lượng võ trang chặn đứng, bẽ gãy nhiều cuộc càn của địch vào Trung Viết (Phước Hiệp), Tân Thạnh Đông, Trung An, Tân Thạnh Tây... ở Tân Thạnh Tây đồng bào giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh đòi bồi thường thiệt hại do địch gây nên. Số tiền được bồi thường, đồng bào ủng hộ cho du kích. ở Nhuận Đức nhân dân vây bót cầu Bến Mương, địch hoảng sợ tháo chạy, đồng bào tiếp tục kéo ra Thị trấn Củ Chi biểu tình chống địch bắn phá bừa bãi (tháng 7 năm 1964).
Bộ đội địa phương và du kích đánh chiếm, làm chủ đồn Cây Bài, đồn chợ và trụ sở tề xã Phước Hiệp, tiêu hao tiểu đoàn bảo an địch đến ứng cứu, tập kích địch ở Cây Trôm, bao vây đồn Hòa Phú, phối hợp với bộ đội quân khu bức rút, bót An Nhơn Tây (tháng 6 năm 1964)
Tháng 5 năm 1964 Quân khu ủy quyết định chính thức đổi tên đoàn K17 Quyết Thắng thành tiểu đoàn chủ lực Quyết Thắng. Ngay trong tháng, tiểu đoàn phối hợp với Trung đoàn 761 chủ lực Miền, phục kích trên tỉnh lộ 7 ở khu vực Gót Chàng (An Nhơn Tây) tiêu diệt tiểu đoàn biệt động quân "Cọp đen" ngụy, bẽ gãy cuộc hành quân gom dân của chúng.
Tháng 6 năm 1964 tiểu đoàn Quyết Thắng lại phối hợp với trung đoàn 762 chủ lực Miền đánh địch trên lộ 7, tiêu diệt 1 chi đoàn thiết giáp ngụy. Ta bắt sống 1 xe M113.
Tiểu đoàn tiếp tục độc lập tác chiến nâng nhanh hiệu suất diệt địch tháng 7 dựa vào thế trận các ấp xã chiến đấu phục kích đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn bảo an ngụy ở Bàu Trâm (Trung An), sau đó lại đánh thiệt hại hai tiểu đoàn khác đến tiếp viện, giải phóng thị tứ Pari- Tân Quy (Tân Thạnh Tây). Từ tháng 8 đến cuối năm 1964, tiểu đoàn ra quân hàng chục trận, nổi bật các trận: phối hợp với lực lượng võ trang Củ Chi bao vây đồn Phú Hòa Đông diệt và làm rã ngũ 40 tên địch, bắn rơi 1 máy bay đến tiếp tế; phối hợp với trung đoàn 761 chủ lực Miền đánh tan một tiểu đoàn ngụy ở Bàu Cúc; phục kích đánh 1 đại đội ngụy quân trên lộ 1 ở khu vực Đồng Chùa, diệt 2 trung đội, bắt sống 8 tên, thu 15 súng.
Đầu năm 1965, trên quốc lộ 1 đoạn Cây Trôm- Suối Cụt, tiểu đoàn Quyết Thắng diệt 2 đại đội địch thu 100 súng, chiến sự tháng 5 năm 1965 trên vùng đất Củ Chi càn quyết liệt với cuộc càng của Trung đoàn 8 Voàng A Sáng, sư đoàn 5 ngụy và lần đầu trên có lực lượng chiến đấu Mỹ tung ra chiến trường.
Được lệnh của quân khu, tiểu đoàn Quyết Thắng triển khai đánh càn ở vùng giải phóng Bàu Lách xã Nhuận Đức, 10 giờ ngày 9 tháng 5 năm 1965 trung đoàn 8 ngụy tiến vào Bàu Lách. Quân ta đánh tạt sườn của chúng. Địch dựa vào các chiến hào bao quanh chống trả mạnh. Tiểu đoàn Quyết Thắng tập trung lực lượng đánh chiếm từng đoạn hào, từng công sự, địch dội bom vá nả pháo cấp tập để chặn đứng bước tiến của quân ta nhưng các chiến sĩ Quyết Thắng vượt qua bom pháo, áp sát địch làm vô hiệu hóa hỏa lực của chúng. Trận đánh tiếp tục kéo dài. Ta cho xuất trận những phân đội dự bị cuối cùng, đồng thời tập trung súng cối của tiểu đoàn bắn trúng sở chỉ huy trung đoàn địch. Sức chống đỡ của địch mỗi lúc một yếu. Cuối cùng trung đoàn trưởng Voàng A Sáng bật công sự dẫn đám tàn quân tháo chạy. Lúc đó là 15 giờ, ta diệt gần 500 giặc, bắt sống 250 tên, thu hàng trăm súng các loại, 30 máy thông tin, nhiều quân trang, quân dụng. Ta giáo dục và thả tại chổ 200 tên, dẫn về trại 50 tên. Như vậy là một tiểu đoàn ta đã đánh thiệt hại nặng 1 trung đoàn địch. Trận Bàu Lách góp phần giữ vững vùng căn cứ Nhuận Đức.
Lúc này, Mỹ đã có mặt ở Củ Chi, lần đầu tiên một trung đội Mỹ ra quân đánh vào căn cứ ta ở xã Phước Hiệp. Lực lượng ta đánh diệt 27 tên, hủy 4 xe bọc thép M113. Du kích xã Nhuận Đức đánh Mỹ trận đầu ở Bàu Lách. Ngày 30 tháng 5 bộ đội địa phương Củ Chi đánh một bộ phận Mỹ ở ấp Trung Hòa.
Cục diện toàn chiến trường tiếp tục chuyển biến nhanh theo hướng thuận lợi cho ta. Thế trận ở Củ Chi phát triển theo hướng ta áp đảo địch, ta đã tiêu diệt, bức rút nhiều đồn bót, phá banh, phá rã từng mãng ngụy quyền cơ sở, giải phóng hàng chục ngàn dân. Vùng giải phóng không những được giữ vững mà còn mở rộng.
Tóm lại, từ năm 1960 đến năm 1965, Đảng bộ Củ Chi vẫn luôn nắm vững tư tưởng tấn công của Đảng, vận dụng đường lối chiến tranh nhân dân, thực hiện tốt phương châm đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị và binh vận, thực hiện được yêu cầu làm tan rã và tiêu diệt một bộ phận ngụy quân ngụy quyền, nhất là ngụy quân ngụy quyền cơ sở, làm phá sản chiến lược "chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ. Vùng giải phóng vẫn được củng cố và ngày càng phát triển tạo nên một thế liên hoàn, căn cứ của khu Sài gòn- Gia Định được mở rộng từ Củ Chi nối dài lên Tây Ninh.
III. Đảng bộ Huyện Củ Chi lãnh đạo nhân dân đấu tranh vũ trang chính trị tham gia tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1965-1968):
1. Đế quốc Mỹ tiến hành "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam - Tình hình Sài Gòn - Gia Định và Huyện Củ Chi.
Chiến lược "chiến tranh cục bộ" đã phải trải qua những đắn đo suy tính cùng những tranh chấp quyết liệt trong nội bộ giới cầm quyền Mỹ mới đi đến quyết định chính thức vào giữa năm 1965. Tháng 7/1965 Tổng thống Mỹ Giôn-xơn quyết định: vượt qua ngưỡng cửa chính thức bước vào chiến tranh trên bộ của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, đưa quân chiến đấu Mỹ vào miền Nam, thực hiện kế hoạch ở ba giai đoạn theo chiến lược "tìm diệt" của Tư lệnh MACV. Chiến tranh cục bộ bắt đầu.
Từ tháng 7/1965, Mỹ ồ ạt đưa quân vào chiến trường miền Nam, tổ chức lại chiến tranh, thành lập các cơ quan quân sự Mỹ, gấp rút xây dựng cơ sở hạ tầng, sân bay đảm bảo phục vụ cho 20 vạn lính Mỹ. Địch lấy Sài gòn làm trung tâm hình thành thế bố trí chiến lược mới ở miền Đông Nam Bộ. Quân ngụy giữ vai trò bình định, quân Mỹ và chư hầu làm nhiệm vụ "tìm diệt". Biệt khu thủ đô đổi thành Quân khu thủ đô, trực thuộc Bổ Tổng tham mưu. Cuối năm 1965 lực lượng bảo vệ Sài gòn có một trung đoàn bộ binh và sư đoàn 25 ngụy, 10 chiến đoàn ứng chiến, một liên đoàn an ninh thủ đô, 3 tiểu đoàn và 10 đại đội bảo an một đại đội quân cảnh...
Ngoài ra Quân khu thủ đô còn được tăng cường tiểu đoàn, biệt động quân, tiểu thủy quân lục chiến, tiểu đoàn khóa sinh, một chi đội cơ giới và hai pháo đội 105 mm.
Địch chia Sài gòn- Gia Định thành bốn vùng, vùng A là vùng địch kiểm soát mà chúng gọi là "vùng phát triển". Vùng B là vùng tranh chấp yếu, là vùng trọng điểm bình định. Vùng C là vùng tranh chấp mạnh có căn cứ du kích. Vùng D là vùng giải phóng và căn cứ của ta, là vùng tìm diệt, tự do oanh kích.
Trong giai đoạn này, chính quyền Sài gòn có sự rối loạn qua 11 cuộc đảo chính (kể cả đảo chánh hụt). Mỹ dựa vào tướng tá đám quân đội ngụy dựng lên chính quyền quân phiệt mới do trung tướng Nguyễn Văn Thiệu là "chủ tịch Uỷ ban lãnh đạo quốc gia " cương vệ quốc trưởng, thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ làm" Chủ tịch Uỷ ban hành pháp Trung ương "cương vị thủ tướng".
Từ tháng 7 đến tháng 12/1965, Mỹ- Thiệu thực hiện chương trình giai đoạn 1 do tướng Mỹ Oét-mo-len (Wesmorelend) đề ra nhằm làm mục tiêu: ngăn chặn hoạt động đối phương trong mùa mưa, tổ chức lại chiến trường, triển khai quân viễn chính trên toàn miền Nam.
Giai đoạn hai gồm hai bước phản công chiến lược: lần thứ nhất được tổ chức từ tháng 1/1966 đến tháng 5/1966, với mục tiêu là tìm diệt và bình định Đông Nam Bộ trong đó Củ Chi là mục tiêu quan trọng của chiến trường Đông Nam Bộ và Sài gòn-Gia Định. Tháng 12/1966 Mỹ mở tiếp cuộc tiến công lần 2 với cuộc hành quân Attelboro.
Tại Củ Chi, địch tổ chức cuộc hành quân Crimp với nhiều binh chủng để phá địa đạo với quyết tâm là bóc vỏ trái đất. Từ 22/2/1967 đến 15/4/1967 khoảng 45 ngàn quân Mỹ và chư hầu với các phương tiện chiến tranh hiện đại Mỹ đã mở một trận càn lớn nhất mang tên Junctioncity nhằm bắt sống tiêu diệt Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Trung ương Cục miền Nam và cơ quan đầu não kháng chiến ở Nam bộ.
Trở lại cuộc càn Crimp, sau hơn 10 ngày không đạt được mục tiêu tiêu diệt cơ quan đầu não và đơn vị chủ lực quân giải phóng. Đến ngày 19 tháng 1 năm 1966 địch buộc phải kết thúc. Quân Mỹ kéo xuống Nam Củ Chi và lập căn cứ tại Đồng Dù.
Sau 12 ngày đêm (từ ngày 8 đến ngày 19 tháng 1 năm 1966) quân và dân Củ Chi đã đánh 200 trận lớn nhỏ, diệt và làm bị thương trên 100 Mỹ ngụy, bắt sống 1 thiếu tá, bắn rơi 84 máy bay (có loại 79 HUIA), phá hủy và phá hỏng 77 xe quân sự (có 56 xe bọc thép M113), 2 pháo 105 ly. Chỉ có một mục tiêu mà coi nhu cuộc hành quân Crimp đạt được là tàn phá: giặc Mỹ đã san bằng trên 1000 ngôi nhà, đốt trụi trên 200 nhà khác, triệt hạ hàng ngàn hécta vườn cây, ruộng lúa, càn nát nhiều giao thông hào, đánh sập một số miệng địa đạo.
Mỹ lần lượt điều các đơn vị thuộc sư đoàn 25 "Tia chớp nhiệt đới", một sư đoàn đã kinh qua huấn luyện và chuyên tác chiến ở vùng rừng nhiệt đới, chống du kích... đến căn cứ Đồng dù thay thế sư đoàn 1 "Anh cả đỏ". Quân Mỹ liên tục chà đi xát lại, tập trung xung quanh Đồng dù, hủy diệt các vùng Cây Sộp, Trảng Lắm, Phú Hiệp... san bằng trên 2000 ngôi nhà, nhiều vườn cây. Sư đoàn 25 Mỹ đã biến vùng đất quanh căn cứ Đồng Dù và cả vùng lớn phía Bắc Củ Chi thành một vành đai trắng. Cho đến năm 1966: 660 hécta, trong đó có 350 hécta đồn điền cao su ở xã Phước Vĩnh An trở thành căn cứ của 4500 lính Mỹ.
Đêm 20 tháng 1 năm 1966, tiểu đoàn Quyết Thắng bám sát địch rút lui khi chấm dứt trận càn Crimp, thực hiện trận tập kích một tiểu đoàn Mỹ đóng dã ngoại tại lô cao su số 6 Gò Nổi. Lực lượng tấn công chia làm 3 mũi, bí mật tiếp cận địch, B40, B41, DKZ và cối cấp tập khai hỏa, bộ binh xung phong, tràn vào chổ địch ngủ mà đánh. Sau 3 giờ chiến đấu, tiểu đoàn Quyết Thắng đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn Mỹ. Đây là tiểu đoàn Mỹ đầu tiên bị loại trên chiến trường ngoại thành Sài gòn- Gia Định.
Ngày 25 tháng 1 năm 1966 trên mãnh đất Củ Chi còn nóng bỏng khí thế chiến đấu, Bộ chỉ huy quân khu Sài gòn- Gia Định tổ chức ngay hội nghị tổng kết chiến tranh nhân dân ở Củ Chi. Qua hiệp đầu, nhân dân Củ chi đã góp phần giải đáp một câu hỏi lớn cho toàn Miền: chiến tranh nhân dân có thể thắng chiến tranh hiện đại của Mỹ.
Ngày 7 tháng 2 năm 1966 Quân khu Sài gòn- Gia Định mở đại hội dũng sĩ diệt Mỹ ngay trên đất Củ Chi. Đại hội tuyên dương và tặng danh hiệu "Dũng sĩ diệt Mỹ" cho 209 cá nhân đã diệt được Mỹ. Trần Thị Gừng, Võ Thị Mô là những nữ dũng sĩ diệt Mỹ đầu tiên của Củ Chi. Bác nông dân Nguyễn Văn Nì được xếp vào hàng dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú (dũng sĩ diệt Mỹ các cấp do Quân ủy và Bộ chỉ huy Miền đề xướng, Cục chính trị B2 bổ sung cụ thể và quy định trên toàn miền Nam: Dũng sĩ diệt Mỹ cấp 3 là diệt được 3 Mỹ hoặc làm chết bị thương 9 tên. Dũng sĩ diệt Mỹ cấp 1 là giết được 9 tên, hoặc làm chết, bị thương 14 tên. Cấp ưu tú: giết chết 15 tên Mỹ hoặc làm chết bị thương 18 tên).
Qua diễn đàn của các đại biểu, các dũng sĩ, đại hội rút ra 10 kết luận về khả năng đánh Mỹ của chiến tranh nhân dân địa phương:
1- Ai ai cũng đánh được Mỹ
2- Vũ khí gì cũng đánh được Mỹ
3- Nhiều đánh được, ít cũng đánh được, một người, một tổ đều đánh được.
4- ở đâu cũng đánh được Mỹ, chỉ cần tích cực bám địch, tìm địch là đánh được.
5- Ngày cũng đánh được, đêm cũng đánh được
6- Địch phản công là cơ hội để diệt chủng
7- Đánh ở phía trước, đánh trong hậu cứ địch. Đánh đều khắp, làm cho địch bị động, bối rối càng dễ đánh hơn.
8- Đánh địch trong ấp chiến lược và cả ngoài xã, ấp chiến đấu.
9- Có khả năng, thắng tất cả mọi binh chủng của Mỹ như bộ binh, xe tăng, máy bay, biệt kích.
10- Đánh bằng vũ trang, bằng chính trị và cả bằng binh vận làm cho địch tan rã nhanh chóng.
Đại hội phát động tiếp tục phong trào thi đua diệt Mỹ trên toàn huyện Củ Chi. Ngày 9 tháng 2 năm 1966 Khu ủy Sài gòn- Gia Định lại họp bàn và ra chỉ thị, lập vành đai diệt Mỹ. Vành đai được thiết lập bao gồm phần đất của các xã Tân An Hội, Phước Vĩnh An, Trung Lập Hạ, Nhuận Đức, Phú Hòa Đông, trở thành tuyến lửa bao vây địch. Toàn bộ vành đai là một trận địa nhiều tuyến, nhiều ổ cụm chiến đấu, lổ bắn tỉa, ấp xã chiến đấu liên hoàn, vừa là trận địa vây hãm, ngăn chặn địch nống ra, lại vừa là bàn đạp tiến công đột nhập căn cứ địch. Cấu trúc trận địa linh hoạt theo địa hình, cụ thể từng khu vực; trận địa xã Nhuận Đức gồm 3 tuyến: Tuyến một chỉ cách căn cứ Đồng dù con suối Bến Mương, kéo dài từ Bàu Chứa đến Bàu Cạp, dài 2 km. Phía trước tuyến 1 là bãi mìn và chông, tuyến 2 và 3 ở phía sau, nối với tuyến 1 bằng giao thông hào lộ thiên và ngầm. Trên tuyến 2, tuyến 3, ngoài các ụ chiến đấu chống bộ binh như ở tuyến 1, còn có các ụ bắn máy bay bay thấp.
Trên trận địa xã Nhuận Đức, 3 du kích đã dựa vào thế trận để chiến đấu, bẻ gãy nhiều đợt xung phong của lực lượng Mỹ đông gấp bội, giữ vững được trận địa.
Đoạn vành đai xã Trung Lập có đến 5 tuyến kéo dài từ ấp Bàu Tre đến Trảng Lắm. Mỗi tuyến cách nhau 50 đến 70 m, tuyến dài nhất 5 km, tuyến ngắn nhất 3 km. Tuyến một sát địch các ụ chiến đấu chỉ cách nhau trên dưới 15 mét, có giao thông hào nối ra tận đường làng 2, tuyến 5 cuối cùng, các ụ chiến đấu được xây dựng vững chắc, có hầm cấp cứu, các hầm ẩn núp, hầm làm việc.
Đoạn vành đai xã Phú Hòa Đông lại hình thành từ "thế trận thiên nhiên" của khu vực những hầm đá, gò đống, bụi tầm vông. Căn cứ "Hầm đá mội Nước Nhĩ" và căn cứ "Xóm Bà Nhiễm" cách nhau khoảng 1 km, cách tỉnh lộ 15 vài trăm mét, hợp thành trận địa đánh chặn xe tăng địch thường từ các căn cứ quân sự của địch tấn công vàovùng giải phóng của ta.
Cuộc chiến đấu ở vành đai diễn ra vô cùng ác liệt. Trong hai tháng 3 và 4 năm 1966 tiểu đoàn Quyết Thắng chủ động thực hiện các trận tập kích quân Mỹ ở Phú Mỹ Hưng: diệt một đại đội Mỹ và 3 xe tăng ở Rừng Sến (lầu 1); đánh thiệt hại nặng một đại đội Mỹ (lầu 2). Tháng 5 năm 1966 tiều đoàn tiếp tục luồn sâu vào hậu phương địch, tập kích đồn Tân Thạnh Tây do một đại đội ác ôn ngụy đóng giữ, diệt 80 tên, bắt sống 20 tên, thu 50 súng. Cho đến tháng 7/1966 trên vành đai diệt Mỹ lực lượng ta đã 8 lần (kể cả pháo kích) đánh vào căn cứ sư đoàn 25 Mỹ, trong đó 2 trận cuối tháng 7, diệt nhiều Mỹ, phá hủy 20 xe bọc thép.
Các cuộc đấu tranh tay không chặn đầu ngăn cản hàng chục xe cơ giới Mỹ liên tiếp diễn ra ở các xã Phước Hiệp, Phước Vĩnh An và xung quanh căn cứ Đồng Dù trên các trục đường.
Tiểu đoàn 2 Gò Vấp- Hóc Môn đánh các bót đóng ở Tân Quy, Bàu Trâm, Hòa Phú, Bàu Giang, tập kích địch đóng dã ngoại ở Hội Thạnh xã Trung An, ở lô cao su 40, giữ vững và mở rộng được địa bàn căn cứ ở hướng này.
Trên chiến trường Sài gòn- Gia Định, ta đã vừa đánh bại một bước âm mưu của Mỹ địch biến Củ Chi thành vành đai trắng, vừa thiết lập được một vành đai du kích rộng lớn, gĩư vững vùng giải phóng, sau một mùa mưa tiếp tục duy trì áp lực quân sự phía Bắc Sài gòn và ngay cả trong vùng địch chiếm đóng.
Đêm 26 tháng 6 năm 1966 lúc 18 giờ 30 phút, đúng lúc trong căn cứ Đồng Dù quân Mỹ đang tập trung chuẩn bị ăn tối và vui chơi, tiểu đoàn 8 thực hiện trận pháo kích. Tiếp đó, lúc 5 giờ 15 phút sáng ngày 27 tháng 6 năm 1966, đúng lúc quân Mỹ vừa thức dậy và rời khỏi công sự, một trận pháo kích thứ hai lại bồi xuống căn cứ. Hai trận đã diệt và làm bị thương nhiều tên Mỹ, hủy 20 xe quân sự, 50 nhà dù và hàng chục nhà kho.
Đêm 23 tháng 7 năm 1966, tiểu đoàn Quyết Thắng tập kích gây thiệt hại nặng một đại đội bảo an ngụy ở Suối Cụt, rồi lui về đóng ở Sa Nhỏ, phía Tây Bắc cách Thị trấn Củ Chi 16 km, 10 giờ trưa ngày hôm sau 24 tháng 7 năm 1966, 12 trực thăng chở một đại đội Mỹ đổ chụp xuống, theo phương án đã chuẩn bị, tiểu đoàn xuất kích tiêu diệt đại đội này khi vừa chạm đất. Một bầy 25 trực thăng nữa đổ tiếp hai đại đội xuống Cỏ ống, gần Sa Nhỏ để ứng cứu. Trực thăng vũ trang Mỹ lồng lộn phòng rốt két, vãi đạn 12,7 ly dọn bãi. Các chiến sĩ Quyết Thắng không bỏ lỡ cơ hội, nhanh chóng vận động tiếp vận, bám và tấn công lực lượng Mỹ đang đổ xuống. Một bộ phận Mỹ tiêu diệt, 5 máy bay bị bắn rơi. Số còn lại phải chạy về Trung Hòa, không kịp thu dọn xác đồng bọn. Trận này thể hiện rõ chiến thuật "nắm thắt lưng Mỹ mà đánh, một lối đánh mà tiểu đoàn còn xây dựng lâu dài. Lần đầu tiên trên chiến trường Sài gòn-Gia Định, tại trận địa Sa Nhỏ- Cỏ ống, quân Mỹ đã bỏ lại xác đồng bọn.
Ngày 30 tháng 10 năm 1966, trên đất Củ Chi, tiểu đoàn Quyết Thắng phối hợp với bộ đội Miền chặn đánh một tiểu đoàn Mỹ và hai đại đội ngụy hành quân, càn quét, diệt 75 Mỹ, 5 ngụy, phá hủy hai xe bọc thép M113.
Tháng 11 năm 1966, quân Mỹ lại mở cuộc càn phối hợp với ngụy vào vùng Nhị Bình, Bình Mỹ, Tiểu đoàn 2 Gò Vấp- Hóc Môn phối hợp với du kích tại chổ đánh gẫy cuộc càn, bắn rơi 19 máy bay lên thẳng loại khỏi vùng chiến hằng trăm tên Mỹ ngụy.
Sau đại hội động viên và rút kinh nghiệm đánh Mỹ trên đất Củ Chi, quân khu Sài gòn- Gia Định lại mở đại hội thi đua trên đất Củ Chi, động viên quân dân Sài Gòn- Gia Định vào mùa khô quyết chiến mới 1966-1967. Tháng 10 năm 1966, hội nghị du kích chiến tranh toàn miền Nam lần thứ ba công nhận Củ Chi là một trong ba lá cờ đầu phong trào chiến tranh du kích.
Mỹ lại mở cuộc hành quân Céder Falls, mục tiêu là vùng "tam giá sắt", trên bản đồ là một hình tam giá mà các đỉnh là Bến Súc (thuộc xã Thanh Tuyền- Bến Cát), thị trấn Bến Cát và ngã ba sông Thị Tính gặp sông Sài gòn. Ban đầu chỉ rộng chừng 50 km2, cách Sài gòn 30km- 50km về phía Tây Bắc. Về sau "Tam giác Sắt" được hiểu là vùng đất bao gồm cả Củ Chi, Trảng Bàng, Bến Cát (gần Dầu Tiếng). Chính kẻ thù đặt tên "Tam giác sắt" và coi là "mũi tên đáng sợ chĩa thẳng vào Sài gòn". Đây là căn cứ địa mà quân khu Sài gòn- Gia Định thường đặt cơ quan chỉ huy, các lực lượng vũ trang giải phóng gồm cả chủ lực Miền làm bàn đạp tấn công và uy hiếp Sài gòn.
Với ý định triệt hạ "tam giác sắt", tiêu diệt đầu não quân khu Sài gòn- Gia Định "bới tung địa đạo Củ Chi, triệt hạ một vùng du kích chiến tranh mạnh, nhưng thấy trước là không dễ dàng, nên trong cuộc hành quân Céder Falls, địch huy động trên 30.000 quân gồm hai sư đoàn Mỹ thiếu (sư BB25, sư BB1), 3 chiến đoàn ngụy (Tổng công 23 tiểu đoàn, trong đó có 15 tiểu đoàn Mỹ), tăng cường trung đoàn 11 kỵ binh thiết giáp Mỹ, 8 tiểu đoàn pháo 105 li, 2 tiểu đoàn pháo 155 li, chi viện hóa học, chó berger... Với mục tiêu "bới tung địa đạo Củ Chi" giải quyết được địa đạo là thì giải quyết được chiến tranh du kích ở đây. trong cuộc hành quân này, Mỹ rất coi trọng vai trò của công binh. Trung đá Siermen xác định " Céder Falls là cuộc hành quân có ý nghĩa nhất về mặt tác chiến công binh trong chiến tranh hiện đại kể từ trước đến giờ".
Điều đó giải thích tại sao trong cuộc hành quân này, Mỹ huy động một lực lượng đặc nhiệm công binh và hóa học lên đến 600 tên, cộng thêm 300 quân cụm công binh 79.
Nguyên từ sau cuộc hành quân Crimp, địch đã kết luận "hệ thống đường hầm Củ Chi là một trở ngại kinh khủng và nguy hiểm". Thoạt đầu, chúng nghĩ đường hầm rất đơn giản, tường có thể bơm nước diệt được. Nhưng ở Hố Bò, Phú Mỹ Hưng... sau những đợt bơm nước bằng xitec, chúng mới phát hiện ra là không hiệu quả: du kích đã bịt kín cửa, nước bị chặn lại. Từ đó xác định " một thái độ nghiêm túc hơn, một dự phân tích tỉ mỉ và có nghề nghiệp..." đối với vấn đề địa đạo, địch tổ chức nghiên cứu, viết tài liệu huấn luyện, tổ chức những đội phá đường hầm, gọi là những đội "chuột cống" (tunnel rat) gồm 8- 10 đội viên được tuyển chọn trong những binh sĩ tình nguyện dũng cảm nhất, lưỡi lê, gậy, dụng cụ đào hầm, máy thổi, lưu đạn M72, thuốc độc CS1, lựu đạn khói màu, thuốc chống sâu bọ...
Ngoài nhiệm vụ "bóc vỡ mặt đất" với 200 xe ủi và những đội "chuột cống", công binh đã ghép được cầu phao cho xe tăng M48 qua sông Thị Tính, xây dựng bè nổi làm hỏa điểm di động trên sông... Bộ binh, xe tăng, máy bay lên thẳng, tàu thuyền đổ bộ... nhằm vào các khu vực Long Nguyên, Bến Súc, Củ Chi..., thực hiện "bốn mặt bao vây trên bịt kín". Hằng trăm xe tăng tiến qua các làng mạc, căn cứ.
- Quả thật, so với các cuộc hành quân trước đây, cuộc hành quân Céder Falls là một trận càn ác liệt, nguy hiểm. Bên cạnh 200 xe ủi thực hiện "bới tung địa đạo Củ Chi", địch dùng cả súng phun lửa, bom na pan để đốt cháy dưỡng khí trong địa đạo, lại bơm nước, đánh thuốc nổ, bơm hơi độc. Theo sau là "đội quân" chó sục sạo miệng hầm, các đội "chuột cống" luồn lách rất tích cực.
Địch đã thực hiện được một số ý định về mặt tàn phá: san bằng 11 km2 rừng, triệt hạ hầu hết làng mạc, đốt, san ủi 6000 nhà, cướp 5700 tấn lúa, làm chết và bị thương gần 1000 người, gom được 15000 dân Bến Súc, Củ Chi (phần nhiều đưa về trại tập trung Phú Cường, Phú Lợi- Bình Dương). Điều kiện sinh sống của nhân dân bị hủy diệt, nhiều cơ quan địa phương bị bật khỏi căn cứ... Tuy nhiên, ngoài việc tàn phá, gom dân thì cuộc hành quân này không đạt được mục tiêu chính yếu nào mà còn bị thiệt hại khá nặng.
Sau 18 ngày đêm từ ngày 8 đến 26 tháng 1 năm 1967, bộ đội địa phương và các lực lượng chiến tranh nhân dân Củ Chi, Bến Cát, Gò Môn đã loại khỏi vòng chiến đấu 2500 tên Mỹ, 200 tên ngụy, bắn rơi và hư hỏng 13 máy bay, phá hủy và phả hõng 30 xe tăng, xe bọc thép. Trên toàn "tam giác sắt" địch đã bị loại 3350 tên, hầu hết là Mỹ. Nói về mục tiêu cuối cùng là loại Việt cộng ra khỏi vùng, tướng Mỹ S-L-A Mareslell thừa nhận: " cuộc điều tra cho biết: ngay khi quân của chúng ta chưa rút hết khỏi vùng "Tam giác sắt" thì Việt cộng đã đột nhập vào từ trước rồi".
Sau cuộc hành quân Céder Falls, lực lượng Mỹ khoảng 3 đại đội và 22 xe tăng cụm dã chiến có hàng rào ụ xe tăng chìm ở Cây Trắc xã Phú Hòa Đông để hổ trợ cho quân ngụy bình định, thì bị tiểu đoàn Quyết Thắng phối hợp với tiểu đoàn 7 bộ đội địa phương Củ Chi thực hiện tập kích loại 350 tên Mỹ, hủy 18 xe tăng thu 70 súng.
Ngày 20 /12/1968, 3000 lính Mỹ đóng ở Đồng Dù phản chiến, cùng lúc này hơn 1000 công nhân và lao động làm tại đây (phần lớn là dân Củ Chi) đã tổ chức bãi công để tỏ lòng ủng hộ cuộc phản chiến của binh sĩ Mỹ.
Cuối tháng 12/1968 du kích Phú Hòa Đông và Trung An I từ trong ấp chiến lược đánh nguợc trở ra 1 tốp lính Mỹ ở ngoài bưng. Bị tấn công bất ngờ, 10 tên Mỹ bỏ mạng, còn hai tên khác chạy trốn.
Cùng với thắng lợi của lực lượng vũ trang, phong trào quần chúng cũng phát triển rầm rộ. Cuối năm 1968 nhiều nơi ban đêm quần chúng đốt đuốc bao vây đồn, bót địch, điển hình là xã Phú Hòa Đông, Tân Thạnh Tây, Hòa Phú. Phong trào binh vận cũng phát triển, bà con kêu gọi con em mình trở về như ở Trung An. Đồng bào ở các xã Bình Mỹ, Phước Vĩnh An, Tân Thông Hội cũng đấu tranh sôi nổi.
Sau này, dù địch có gom được dân vào ấp chiến lược, nhưng chúng không kềm kẹp được, vì nhân dân có sự lãnh đạo của chi bộ mật, phong trào đấu tranh của phụ nữ lên rất mạnh. Ta có phá ấp chiến lược cũng bằng cách mới, với phương pháp bám trụ, có nghĩa là khi đồng bào nổi dậy phá ấp chiến lược xong thì chốt lại, địch vào nhân dân ta rút ra né, còn lực lượng vũ trang bám lại đánh, giặc đi, ta lại về. Chứ không như trước đây, địch gom ta phá, rồi địch gom lại, cứ thế giằng co. Bây giờ với phương châm: bám trụ rồi bung ra đánh, địch không dám trở lại gom nữa.
Đời sống tinh thần lúc này cũng được chú ý. Đầu năm 1968, đội dân công huyện được nâng lên thành đoàn dân công của phân khu I (thuộc phân khu Sài gòn-Gia Định) được bổ sung thêm 4 cán bộ và diễn viên mới. Đội có nhiệm vụ phục vụ chiến sĩ và đồng bào, ca ngợi tinh thần chiến đấu hy sinh gian khổ, tuyên truyền về đường lối chủ trương chính sách của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam.
- Thành tích của quân dân Củ Chi trong năm 1968 được tổng kết như sau: tác chiến 959 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 11.700 lính địch, trong đó có 8.500 lính Mỹ, bắt sống 140 lính Mỹ, diệt 532 xe cơ giới , phần lớn là xe tăng, hạ và bắn bị thương 214 máy bay, thu 301 súng các loại. Đánh phá 2 chi khu “Củ chi- Phú Hòa”, diệt, bức hàng, bức rút 20 bót địch, đốt 400 căn trại lính, phá nổ 24 kho bom đạn, phá sập 20 cầu cống. Đấu tranh chính trị 271 cuộc gồm: 68.411 lượt người. Có 1.330 gia đình bỏ ấp chiến lược về vùng giải phóng. Buộc địch bồi thường 690.500 đồng, 3.500 bao xi măng.
Như vậy, đến cuối năm 1968, quân dân Củ Chi đã trải qua 3 năm trực tiếp đọ sức với quân viễn chính Mỹ (tính từ 1/1966), mặc dù địch dùng mọi biện pháp đánh phá có tính chất hủy diệt, nhưng vùng giải phóng Củ Chi vẫn đứng vững. Các lực lượng vũ trang kiên cường bám trụ, nhân dân thề quyết sống, chết trên mảnh đất quê hương, để cùng với bộ đội và du kích tiêu diệt quân thù. Quân dân Củ Chi đã cống hiến cho sự nghiệp cách mạng chung của cả nước. Những hy sinh cao cả và những kinh nghiệm qúy báu, xứng đá là lá cờ đầu của phong trào chiến tranh du kích toàn miền, xứng đáng với danh hiệu vẽ vang “Đất thép thành đồng”.
Chiến công của quân dân Củ Chi mùa xuân 1968, đã góp phần cùng cả nước đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, tạo ra một bước nhảy vọt mới cho cách mạng Miền Nam.
IV.- Đảng bộ Huyện Củ Chi lãnh đạo nhân dân tiếp tục đấu tranh xây dựng thực lực cách mạng, góp phần đánh cho Mỹ "cút" (1968-1973)
1. Âm mưu của địch từ sau Mậu Thân 1968:
Bị bất ngờ và thất bại nặng nề trong Mậu Thân (1968), Mỹ ngụy đã phản ứng quyết liệt hòng giành những thắng lợi bước đầu của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Địch thực hiện “Việt Nam hóa chiến tranh” bằng biện pháp “Bình định cấp tốc” và “phát triển nông thôn”. Mỹ tiếp tục tăng thêm viện trợ quân sự để xây dựng quân đội ngụy đủ mạnh, đủ sức đối phó với chủ lực của ta để Mỹ rút quân.
Giônxơn muốn rút lui trên thế mạnh, đã đề ra một chiến lược quá độ là “phi Mỹ hóa” chiến tranh Việt Nam, cụ thể là:
Ngừng ném bon miền Bắc, một khi hành động này không nguy hiểm đến tính mạng người lính Mỹ ở chiến trường.
Thương lượng với Hà Nội chấm dứt hoặc hạn chế chiến sự và bắt đầu một cuộc rút quân nước ngoài ra khỏi Nam Việt Nam bao gồm: Mỹ, chư hầu và có cả Bắc Việt Nam.
Một chính phủ hậu chiến thông qua tổng tuyển cử công bằng, tự do và có an ninh, mọi đảng phải được tham gia.
Trên chiến trường miền Nam, Mỹ- ngụy đã phản kích quyết liệt, ngày 19/10/1968, Thiệu ra sắc lệnh thành lập hội đồng bình định, xây dựng các cấp.
Sau chủ trương “Phi Mỹ hóa chiến tranh” của Johnxon ngày 7 tháng 4 năm 1968 Ních xơn chính thức tuyên bố bắt đầu Việt Nam hóa chiến tranh và được báo chí Mỹ tăng bốc là “Học thuyết Nichxơn” với nội dung chủ yếu là: cân bằng lực lượng, tạm thời hoà hoãn về chiến lược với Liên xô và Trung Quốc, với chiến lược là “răn đe thực tế và chia sẻ trách nhiệm” thay cho chiến lược “phản ứng linh hoạt” cũ, trên cơ sở thực hiện 3 biện pháp chính là:
1- Tăng cường sức mạnh răn đe quân sự
2- Buộc các nước đồng minh chia sẻ trách nhiệm quân sự
3- Thương lượng trên thế mạnh, duy trì vai trò lãnh đạo thế giới của đế quốc Mỹ.
Vận dụng vào chiến tranh Việt Nam, chúng hình thành chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh thực chất là “thay màu da của xác chết”. Dùng người Việt, thôn tính kỳ được Nam Việt Nam và khống chế nó trong qũy đạo của Mỹ.
Nội dung chủ yếu của Việt Nam hóa chiến tranh là :
1- Xây dựng quân đội Việt Nam cộng hòa đủ mạnh để thay thế quân Mỹ đứng vững ở miền Nam Việt Nam
2- Bình định nông thôn miền Nam Việt Nam, kiểm soát đất đai và dân chúng, coi đây là nhân tố sống còn của Việt Nam hóa chiến tranh.
3- Củng cố hệ thống ngụy quyền các cấp để ổn định tình hình chính trị, kinh tế ở miền Nam Việt Nam.
4- Thực hiện chiến tranh "bóp nghẹt" chia cắt miền Nam Việt Nam với miền Bắc, Lào, CamPuchia.
Thực hiện chiến lược này, địch tăng cường càn quét, đánh phá đầy đủ chủ lực ta ra xa các vùng trọng điểm, đồng thời dùng nhiều biện pháp phối hợp chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, chiến tranh gián điệp, hoạt động đảng phái, tôn giáo vv... nhằm chống lại chiến tranh nhân dân của ta.
Theo kế hoạch phòng thủ Sài gòn, địch bố trí lại lực lượng và thế trận.
Sau sắc lệnh tổng động viên, ban hành sắc lệnh “quân sự hóa học đường”, quân sự hóa phường, liên gia, công tư sở, công tư chức, ra sắc lệnh cấm hội họp, biểu tình, đình công. Thực hiện tuyên bố “Bắn bỏ ngay tức khắc bất cứ ai đòi hòa bình”.
Lực lượng nhân dân tự vệ, được đặc biệt coi trọng phát triển không chỉ để đôn quân, bắt lính mà còn để mỗi người dân thành một người lính địch.
Nhân dân tự vệ được trang bị súng, phải làm nhiệm vụ canh gác, lùng sục, gây không khí căng thẳng triền miên trong dân chúng.
Ở ngoại thành, quân Mỹ vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ lá chắn, đẩy lùi chủ lực ta ra xa hơn, đại bộ phận quân ngụy làm nhiệm vụ càn quét với mật độ lớn hơn các năm trước nhằm triệt phá các nhóm căn cứ, các bàn đạp, làm bật gốc các lực lượng ta ra khỏi ven đô.
Trên vòng cung phía Bắc Sài gòn, chất độc, bom xăng, pháo đạn, xe tăng, xe ủi kết hợp tiếp tục thực hiện xóa trắng vùng đến mức “cây cối cháy rụi, khiến cho du kích không còn nơi ẩn nấp”. Chúng đã sử dụng 38 tiểu đoàn Mỹ, 67 tiểu đoàn ngụy và 4 tiểu đoàn chư hầu để càn quét, xúc tác dân, lập vành đai trắng , bịt các mối đường vào Sài gòn, tiến hành các cuộc đánh phá có tính chất hủy diệt kéo dài từ cuối năm 1968 đến 1971 đối với những vùng chúng cho rằng “...có Việt cộng xâm nhập...” Với cách làm trên địch đã thu được một số kết quả nhất định.
Ở Củ Chi, về thực lực trong thời kỳ này bọn địch có khoảng 8000 quân chính quy và trên 5000 quân địa phương. Tất cả số quân này hành quân lưu động, hoặc đóng tại căn cứ Đồng dù và ở các chốt: Cây Me (Xã Phú Hòa Đông), Bến Mương (xã nhuận Đức), Bàu Giang (xã Trung An), Trung Hưng (xã Trung Lập Thượng) và đóng rải rác ở 26 tua và đồn bót (mỗi tua có 1 - 2 tiểu đội), mỗi đồn có từ 1 trung đội đến 2 đại đội dọc theo các trạm giao thông quan trọng như: quốc lộ 22, liên tỉnh lộ 7, 8 và 15. Ngoài ra địch còn đóng quân ở các cụm pháo, chúng có cụm pháo lớn nhất ở Đồng Dù gồm 30 khẩu từ cở 105 ly đến 203 ly, cụm pháo ở Trung An, Trung Hòa mỗi cụm 10 khẩu. Cơ giới các loại có khoảng 300 chiếc kể cả xe tăng, thiết giáp, máy bay và tàu ghe chiến đấu.
Với lực lượng này, trong năm 1971 kẻ địch lại lao vào những cuộc càn quét, bình định liên miên hòng đánh bẹp lực lượng cách mạng mà chúng ngỡ rằng đã kiệt sức.
Mặt khác, địch mở chiến dịch mang tên “Phượng Hoàng” tung hàng trăm tên gián điệp, bình định, chiêu hồi đánh mạnh vào vùng tranh chấp. Tăng cường kiểm soát rất nghiêm ngặt từng hộ nhân dân như kiểm kê tài sản nhân dân, không cho tích trữ lương thực nhiều, chỉ cho xay từ giạ lúa, cho gữ từng thùng gạo theo số người của mỗi gia đình. Đi chợ mua trên 1 kg đường, hơn một hủ mắm là chúng tình nghi tra hỏi. Chúng còn khám xét kỷ những người ra làm đồng, làm ruộng vv...
Với những hoạt động “hắc ám” man rợ như bắt cóc, ám sát, thủ tiêu, tra tấn, tác động tâm lý... gây thiệt hại cho nhân dân khá lớn. Hãng thông tấn “Mỹ UPI nhận xét” các cuộc ám sát và tra tấn là cơm bữa để thực hiện chương trình bình định “Phượng Hoàng”.
2. Chủ trương của ta:
Về phía ta tuy giành được thắng lợi to lớn trong mùa xuân 1968, nhưng cũng gặp không ít khó khăn như lực lượng vũ trang và một số cơ sở chính trị bị tổn thất nặng. Có thể nói từ năm 1969 đến năm 1971 qua nhiều hoạt động của địch đã gây cho ta không ít khó khăn.
Đứng trước tình hình khó khăn mới Thành ủy đã họp liên tiếp 3 ký tin Ba Thu ra các Nghị quyết Bình Giã I (8/1968). Bình Giã II (3/1969), Bình Giã III (7/1969) nêu rõ:
- Chuyển hướng một số hoạt động, tổ chức để bảo toàn cơ sở. Đi sâu vào công tác quần chúng có tính chất lâu dài vững chắc.
Tháng 8 năm 1968, Phân khu 1 quyết định chia Củ Chi ra làm hai huyện Nam Chi và Bắc Chi cho phù hợp với tình hình và chỉ đạo được sát. Ngay sau đó nhiều xã mở hội nghị quân sự để nghiên cứu cách đánh địch bằng lực lượng vũ trang thoát ly. Kết hợp đánh địch bằng những tổ du kích mật vào trận hang ổ, sào huyệt của chúng.
Trong thời gian này, thường vụ Trung ương Cục ra chỉ thị 71/TV-TWC nêu nhiệm vụ cho Đảng bộ quân dân miền Nam: "Đẩy mạnh tổng công kích- Tổng khởi nghĩa trên khắp 3 vùng, nhằm tiêu hao tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch và phương tiện chiến tranh của Mỹ- ngụy, mở rộng vùng giải phóng nông thôn, giành quyền làm chủ một phần ở đô thị (chủ yếu ở cơ sở)... nhằm giành thắng lợi lớn, làm chuyển thế và lực, tiến lên giành thắng lợi quyết định".
Tháng 4 năm 1969, Bộ chính trị họp hội nghị về tình hình nhiệm vụ mới. Hội nghị kiểm điểm những sai sót trong chỉ đạo và thực hiện nhận định những thất bại lớn của Mỹ, những mâu thuẩn không thể khắc phục được của chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, về hai khả năng tùy thuộc vào nỗ lực của ta và khó khăn về quân sự chính trị, tài chánh của Mỹ do cuộc chiến tranh ở Việt Nam tác động. Trên cơ sở nhận định: "chúng ta đang đứng trước thời cơ lớn để thừa thắng tiến lên", hội nghị xác định nhiệm vụ "tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích- tổng khởi nghĩa", đánh cho Mỹ rút hết quân, đánh cho ngụy phải suy sụp và ta giành thắng lợi quyết định".
Tháng 1 năm 1970, Ban chấp hành Trung ương Đảng ra nghị quyết quyết tâm đánh bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ, chấp hành Nghị quyết của Trung ương, Thường vụ Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền chủ trương mở cuộc tấn công XuâhHè 1970 với những chỉ tiêu rất cao.
3. Đảng bộ Huyện Củ Chi lãnh đạo nhân dân tiếp tục đấu tranh, xây dựng thực lực cách mạng góp phần đánh cho Mỹ cút.
Năm 1969, vì bị thua ở Việt Nam, Giôn Xơn phải rút lui, không dám ra ứng cử Tổng thống Mỹ Ních Xơn bước vào nhà trắng đưa ra một học thuyết mang tên :Học thuyết Ních Xơn", đây là một đường lối chỉ đạo mới về chiến lược toàn cầu của Mỹ. Học thuyết ấy được vận dụng thí điểm đầu tiên ở Việt Nam là chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh".
Thực hiện chiến lược này, đế quốc Mỹ cố duy trì ách thống trị thực dân mới, bằng cách dùng quân ngụy thay chân cho quân Mỹ; tiếp tục kéo dài và đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược toàn miền Nam. Chúng tăng cường mở rộng chiến tranh ở Campuchia và Lào, dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương, có sự yểm trợ đến mức tối đa về không quân và hậu cần của Mỹ.
Trước tình hình ấy, Đảng ta nhận định: Đây là một sự chuyển hướng chiến lược bị động của địch. Để tránh khỏi thất bại Đảng ta nêu cao quyết tâm: kiên trì cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đánh bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ.
Củ Chi vốn là cửa ngõ Tây Bắc Sài gòn, có một vị trí chiến lược quan trọng, nối liền Trung ương Cục và thủ đô Sài gòn, trung tâm đầu não của địch, nên Củ Chi nằm trong vùng trung tuyến, chỉ thị của Trung ương Cục lúc này là "Bằng mọi giá phải giữ cho được trung tuyến, vì mất trung tuyến ta không thể nào đứng được", Trung tuyến có vai trò hết sức quan trọng, là nơi để đưa lãnh đạo của Trung ương Cục về đây và chỉ đạo về thành phố; nơi để lực lượng trên về trú đóng, sẳn sàng triển khai tác chiến, đồng thời nhận lương thực, từ ấp chiến lược vận chuyển ra để tiếp tế cho lực lượng cách mạng. Tình hình lúc này rất gay go về vấn đề tiếp tế lương thực người ta thường gọi khúc sông từ Rạch Bắp lên đến Cỏ Trách là sông máu, vì trong thời gian này chỉ riêng tiếp tế lương thực, ta đã hy sinh trên 600 người, lúc này các đồng chí thường nói:
Đông sông, dễ ở khó ăn
Tây sông, dễ ăn khó ở
Để thực hiện âm mưu gom dân, tiêu diệt lực lượng cách mạng, Mỹ ngụy thường sử dụng quân chính quy có bảo an phối hợp, máy bay và xe tăng yểm trợ, càn quét đánh phá liên tục trên toàn Huyện Củ Chi. ở vùng giải phóng chúng cho máy bay B52 ném bom rải thảm, bắn pháo theo tuyến đường mòn, thả máy thu phát tiếng động rải rác khắp nơi và tung biệt kích, gián điệp vào hoạt động ở vùng sâu.
Đẩy mạnh hoạt động chiến tranh tâm lý, chúng thường xuyên dùng máy bay kêu gọi cán bộ ta chiêu hồi, trở về với "chánh nghĩa quốc gia", bất kể ngày đêm. Chúng mở chiến dịch "Phượng hoàng" nhằm theo dõi và tiêu diệt lực lượng cách mạng ở cơ sở của ta, hỗ trợ cho việc bình định, củng cố lại và phát xít hóa bộ máy tề ngụy, lập thêm nhiều đồn bót, có 4 chốt lớn cở tiểu đoàn tới trung đoàn và 6 cụm pháo.
Chúng huy động sư đoàn 25 ngụy với khoảng 7000 quân cơ động và chốt đóng ở dọc đường số 22, phía Nam Đồng Dù, một lữ đoàn biệt động quân, gồm 4 tiểu đoàn, có 2000 tên không kể số bảo an, dân vệ và phòng vệ dân sự, khoảng trên 1 vạn tên nữa.
Trong khi lực lượng quân sự của địch được tăng cường dầy đặc như vậy, thì lực lượng vũ trang nhân dân Huyện Củ Chi chưa kịp củng cố. Vì theo yêu cầu của chiến trường toàn miền, tiểu đoàn 7 bộ đội địa phương đưa lên tăng cường cho trung đoàn 268 bộ đội chủ lực quân khu I. Huyện phải tập trung 5 trung đội quyết chiến, phân thành 2 đại đội trực thuộc 2 vùng Nam Chi và Bắc Chi. Lúc này Củ Chi chỉ còn lực lượng du kích bám trụ. Tình hình lúc này trở nên ác liệt, dữ dội, tưởng chừng như không thể vượt qua nổi, chúng ra lệnh cho triệt hạ Củ Chi, không còn một màu xanh của cây, mất cả địa hình, pháo bắn cấp tập ngày đêm, máy bay tự do ném bom. Trên trời đầu đỏ cá rô quần đảo, lùng sục suốt ngày đêm trên địa phận Củ Chi, dưới đất thì biệt kích dầy đặc như kiến. Cán bộ ta phải ở dưới lòng đất. . . Nhưng Củ Chi vẫn tồn tại và vẫn diệt được địch, chiến tranh du kích vẫn phát triển đều khắp trong huyện. Lực lượng bên trong và bên ngoài vẫn liên lạc được với nhau.
Củ Chi không mở được những trận đánh lớn làm tiêu hạo sinh lực địch, nhưng lối đánh đa dạng, phục kích, đánh chất nổ, quay trái địch, để đánh địch như: mìn định hướng, các loại trái.v.v..., ta còn dùng mìn, để đánh máy bay trực thăng của địch như ở Bình Mỹ, Tân Phú Trung, bằng cách treo mìn trên ngọn cây, khi máy bay đến quần đảo ta giật dây mìn nổ tan xác trực thăng... Vối lối đánh đa dạng như trên, bắng lực lượng du kích công khai hoặc bí mật, ta gây cho địch nhiều thiệt hại đáng kể. Song song ta còn lãnh đạo một số phòng vệ dân sự, cầm súng địch để đánh địch. Chỉ trong tháng 1/1969, bộ đội địa phương Củ Chi cùng du kích đã đánh 60 trận, loại 385 tên, trong đó có 41 lính Mỹ, bắn cháy 4 xe cơ giới và 3 trực thăng.
Ở một số xã: Tân An Hội, Phước Vĩnh An, Tân Thạnh Tây, Phú Hòa Đông, Tân Thạnh Đông; kẻ thù đã dồn dân vào những ấp chiến lược và thẳng tay kềm kẹp, lúc này vì hoạt động vũ trang có giảm đi nên không kịp thời hỗ trợ cho quần chúng phá kềm kẹp. Địch phong tỏa bịt các cửa ra vào ấp chiến lược, không cho dân ra ngoài sản xuất, chúng phục kích, khám xét khắp nơi. Chúng tuyên bố: nhất định không cho một hạt gạo, hạt muối ra vùng giải phóng tiếp tế cho lực lượng cách mạng. Người dân Củ Chi gọi năm này là năm khốc liệt. Chúng thả máy thu, phát tiếng động để phát hiện sự di chuyển của lực lượng ta; rãi hạt cỏ Mỹ ở vùng giải phóng, cho trực thăng ngày đêm quần đảo, vây ráp. Vùng giải phóng Củ Chi hầu như không còn dân, còn một số họ cũng xuống giữa ruộng che vài tấm tranh hay một tấm tôn để ở hoặc xuống địa đạo. Nừu không bị xúc vào vùng địch kiểm soát thì họ cũng tản cư đi nơi khác.
Tình hình khó khăn như thế, nhưng hoạt động du kích của ta vẫn phát huy hiệu quả. Ngày 23/2/1969, du kích Củ Chi đã bắn rơi 1 máy bay cá rô tại Phú Hòa Đông, diệt 3 tên Mỹ, đánh bồi bằng mìn vào bọn lấy xác, làm 2 tên khác chết và một tên bị thương.
Ngày 26/2/1969, lực lượng địa phương gồm du kích Phú Hòa Đông, Phú Hòa Tây, Phước Vĩnh An đã dẫn đường cho một trung đoàn chủ lực đặc công áp sát căn cứ Đồng Dù, rồi bất ngờ tấn công tiêu diệt sở chỉ huy lữ đoàn 2 của sư đoàn 25 bộ binh Mỹ, phá hủy 219 căn trại, diệt hàng trăm tên Mỹ, trong đó có 150 tên giặc lái, đốt 4 kho đạn, 1 kho xăng, phá gần 100 máy bay, 179 xe quân sự, sau đó rút quân, cùng toàn bộ chiến lợi phẩm, thu được về căn cứ an toàn.
Lực lượng cách mạng có bị tiêu hao, bởi vùng giải phóng bị thu hẹp, vùng căn cứ bị uy hiếp, cơ sở cách mạng bị khống chế gắt gao. Có nhiều chi bộ xã lột xác, có những chi bộ lột xác 2, 3 lần như: xã Phước Hiệp, Tân An Hội, Trung lập, Tân Phú Trung, chi bộ Bình Mỹ chỉ còn 2 đảng viên, hàng năm trời mất liên lạc với Huyện ủy.
Ở Tân Phú Trung, tình hình hơi yếu, nguyên nhân là do một số tên chiêu hồi, đầu hàng; địch đánh phá cơ sở, nhưng ta cũng tổ chức tước vũ khí địch ở tại đây. Xã Tân Thạnh Đông cũng rất gay go, cán bộ đi công tác vào vùng này hầu như bị bắt.
- Phong trào diệt bọn bình định ác ôn cũng được nâng cao, đây là bọn tác động tâm lý chiến, tìm hiểu, đánh phá cơ sở cách mạng ta, chúng thúc ép vợ, con cán bộ ta phải lấy chúng làm chồng để có điều kiện che chở, dạy trẻ em những bài hát “xây dựng nông thôn” tập hợp thiếu nhi thành những đội thiếu nhi nông thôn, và nhiều thủ đoạn khác rất hiểm độc. Có thời kỳ ta nêu khẩu hiệu: “giết 1 thằng bình định bằng 3 thằng Mỹ”. Ngày 4/4/1969, du kích Tân Thạnh Tây đột nhập ấp chiến lược Tân Quy diệt gọn 1 đội bình định gồm 7 tên, gây bị thương 5 tên khác. ở các xã như Tân An Hội, Phước Thạnh... du kích ta cũng diệt nhiều tên bình định.
Không phải chỉ lực lượng vũ trang đánh mới tiêu diệt địch, mà ngay bất cứ người dân thường nào, già, trẻ, gái, trai, nhi đồng đều đánh được địch. Tiêu biểu ngày 5/5/1969, hai vợ chồng nông dân ở ấp ràng (xã Trung Lập Thượng) dùng trái sưu tầm được, diệt 4 tên Mỹ và 2 tên khác bị thương, trước đó họ đã diệt 1 xe bọc thép, làm hư một xe khác, gây bị thương 45 tên Mỹ. Ngày 11/6/1969, hai em bé xã Phước Thạnh đã mưu trí, can đảm gài mìn trên lộ 7, đoạn Suối Cụt- Bàu Điều, diệt 1 xe bọ thép. Cùng ngày, cũng trên lộ 7 đoạn đường An Nhơn Tây, một thiếu niên tên Hồng cũng can đảm không kém 2 em bé ở Phước Thạnh, đã gài mìn diệt một xe tăng khác.
Trong giai đoạn khó khăn ác liệt này, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Củ Chi vẫn nêu cao ý chí cách mạng, kiên cừơng, không chao đảo nản lòng, họ nhìn thấy được sự lồng lộn của kẻ thù, nhưng trên thế yếu, thế thua chứ không phải ở thế thắng. Cho nên, bằng mọi cách họ vượt qua mọi gian lao thử thách, tập hợp, tổ chức lại lực lượng để ngăn chặn bàn tay đẫm máu của kẻ thù và tiêu diệt chúng, nhất quyết không rời từng tấc đất của quê hương, có những đồng chí hàng tháng trời sống trong hầm bí mật, hay ẩn mình giữa đồng bưng, đói cơm, lạt muối, thiếu nước uống, có khi phải ăn rau, lá cây lót dạ thay cơm.
Bám trụ để đánh địch là truyền thống của quân dân Củ Chi, người cán bộ trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải bám trụ trong tư thế chiến đấu. Họ giành giật với quân thù từng khoảnh đất, từng chút khi trời, ánh sáng, ánh trăng đêm. Bám trụ để lãnh đạo, để đưa tiếng nói của Đảng về với nhân dân. Họ dùng những hòm thơ bí mật để liên lạc với nhau, nếu đứt liên lạc thì nghe đài giải phóng để phán đoán tình hình, nắm lấy chủ trương của Đảng mà hoạt động. Yêu cầu bám trụ lúc này là duy trì sự có mặt của lực lượng cách mạng để quần chúng tin tưởng, có người nói: “tụi bây, lâu lâu đi đi qua lại, tao thấy tụi bây, tin là có cách mạng được rồi”. Trong thời gian này có thể nói, địa đạo là căn cứ bảo đảm vững chắc nhất của cơ quan lãnh đạo từ trên xuống dưới. Nơi nào tìm được 50 mét địa đạo là rất mừng, trên 150 mét là rất phấn khởi. Hỗu hết cán bộ và Huyện ủy phải bám địa đạo.
Nhân dân bị dồn ép, khống chế, nhưng vẫn một lòng, một dạ hướng về cách mạng. Họ kiên quyết bảo vệ từng cán bộ chiến sĩ cách mạng, sáng chế những hầm bí mật thật độc đáo để che mắt địch. Có thể nói: hầu hết các xã, trong ấp chiến lược, ở nhà dân đều có hầm bí mật. Hai hầm bí mật ở nhà bà Trần Thị Giây xã Tân Thông Hội là những mẫu mực điển hình. ở xã Tân An Hội (ấp Bắc Hà), xã Phước Vĩnh An (chỗ ấp Cây Bài) đồng bào rất trung kiên, con người lao động hiền lành, nhưng quyết bảo vệ cách mạng đến cùng. Họ đã đào hầm để nuôi giấu Ban Chấp hành phụ nữ Huyện ở ngay trong lòng địch. Do đó, các đồng chí về đây công tác rất an tâm. Nổi bật nhất là ở Phú Hòa Đông và Trung Hòa, do địch biết ta ban ngày bám trụ, đêm bung ra, cho nên chúng bao vây có lúc trên 10 ngày. Ngay trong đêm, nhân dân ở ấp chiến lược đào sẵn hầm, nuôi giấu trên 70 cán bộ thoát khỏi cuộc vây ráp của địch. Ngoài ra quần chúng còn tìm mọi cách để chuyển lương thực, thực phẩm như độn cơm vào ngực, giấu gạo trong cán cuốc, ống trúm đặt lươn, giả cắt cỏ dỡ cơm, lập mưu vái thần, vái thánh, đem đầu heo, nhang đèn ra đồng tiếp tế cho ta.
Mặc dù bị vây ráp, càn quét nhưng lực lượng kháng chiến ít xin tiền, của ở trên, mà chủ yếu do đồng bào tại chỗ đóng góp, các xã Phước Vĩnh An, Tân Thông Hội, Trung An, Bình Mỹ B... đã đóng góp rất nhiều cho cách mạng. Cơ sở ở Nam Chi hoạt động khá, các chi bộ hoạt động đều, tổ chức quần chúng hoạt động mạnh, nhất là phụ nữ. Huyện ủy Nam Chi xây dựng căn cứ đầu tiên của Huyện ủy ở Phú An, huyện Bến Cát (tỉnh Sông Bé) một thời gian ngắn. Sau đó Huyện ủy Nam Chi trở về bám trụ, xây dựng tại ấp Phú An, xã Phú Hòa Đông và ấp Bến Đình, xã Nhuận Đức (nay là khu di tích lịch sử bến Đình).
Cán bộ nhân dân son sắt một lòng, lửa cách mạng không bao giờ tắt, phong trào diệt ác phá kềm cũng được duy trì. Trong tháng 7/1969, du kích xã Trung Lập Thượng, An Nhơn Tây, Trung Lập Hạ đã 4 lần đột nhập trung tâm huấn luyện Trung Hòa, phát động quần chúng xung quanh nổi dậy, diệt ác phá kềm, giải tán bọn phòng vệ dân sự, diệt 8 tên ác ôn thuộc các sắc lính khác nhau.
- Tuy tình hình rất gay go, ác liệt, song quần chúng nhân dân vẫn lạc quan và sinh hoạt bình thường, họ vẫn được xem văn nghệ. Diễn viên đoàn văn nghệ lúc này chia nhau đi phục vụ, tuyên truyền khắp nơi trong huyện.
Vào khoảng tháng 8/1969, trước tình hình chiến sự gay go ác liệt, có chủ trương rút trung đội nữ về hoạt động bên trong các ấp chiến lược, vào các tổ du kích mật và bổ sung một số chị em cho đội biệt động thành. Những quán nước, nhà ăn, những trụ sở của địch, vẫn thường có mìn nổ tiêu diệt từng toán tề điệp. Bộ đội chủ lực phối hợp với du kích, tập kích và pháo kích những cứ điểm của quân thù. Các khẩu pháo 72 ly, phân tán ra cho du kích giấu dưới địa đạo, khi cần lấy lên sử dụng ngay.
Các công trường xã vẫn tạo mọi điều kiện để sản xuất vũ khí. Để chặn địch, du kích lập ra những bãi trái lớn; những bãi trái ở Nhuận Đức, An Nhơn Tây, Thái Mỹ dài hàng ngàn mét bãi trái của đội du kích do đồng chí Lê Văn Đạm (An Nhơn Tây) phụ trách gài tới 900 trái các loại.
Ở Tân An Hội, du kích còn ném trái vào sân khấu bọn địch đang hội diễn văn nghệ. Những trận phục kích nhỏ, lẻ tẻ tiêu diệt binh lính, tiêu diệt bọn cán bộ bình định vẫn nổ ra như: Phú Hòa Đông, Tân Phú Trung, Tân Thông Hội, Tân Thạnh Tây, Trung Lập, tiêu diệt hàng trăm tên dịch.
Giữa những ngày gian nan vất vã thi một tin vô cùng đau đớn: Hồ Chú Tịch qua đời. Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong cả nước hết sức xúc động trước tin buồn này và thương tiếc vô hạn vị lãnh tụ vĩ đại, vô cùng kính yêu của giai cấp và dân tộc.
Quân dân Củ Chi cũng nằm trong nổi đau chung của đất nước, nhà nào cũng thắp hương, hoa quả để tưởng nhớ tới Bác, ai cũng để tang Bác một cách bí mật. Tại nhà bà Võ Thị Giờn (Tân Thông Hội) một số cán bộ đã bí mật tập họp tại đây, làm lễ truy điệu Bác Hồ ngay trong hầm bí mật.
Kẻ thù biết rõ lòng dân tôn kính Bác Hồ, nhiều nhà ở Củ Chi, truy điệu thờ cúng Bác Hồ, chúng chống phá không nổi và một số nơi không dám chống phá, lợi dụng cơ hội này, bọn địch chuyển sang đánh đòn chiến tranh tâm lý. Hàng ngày chúng cho loa phóng thanh khắp trong ấp chiến lược và cho máy bay trực thăng. Đacôla ra rả ở các đồng bưng. Nhưng nhân dân Củ Chi không thối chí, bên cạnh họ vẫn còn những đảng viên của Đảng, của Bác Hồ, mà hàng ngày họ luôn tin yêu đùm bọc và che chở.
Hội nghị các xã đội trưởng được triệu tập ở Hố Bò (xã Phú Mỹ Hưng), các tài liệu, các lời hiệu triệu của chính phủ Cách mạng Lâm thời được đưa xuống nhân dân. Họ chăm chú theo dõi đài Hà Nội, về lễ truy điệu Bác, mọi người như thấy lời di chúc của Hồ Chủ Tịch là lời Tổ quốc thiêng liêng.
Biến đau thương thành hành động cách mạng, người dân Củ Chi bền gan, vững chí, xiết chặt đội ngũ, anh dũng tiến lên. Tháng 9/1969, 45 gia đình ở Phước Hiệp thà đội bom pháo địch, chứ không chịu vào ấp chiến lược. Cùng trong thời gian này, 10 tên thám báo bị diệt ở Tân An Hội, 12 tên địch và 1 máy bay bị hạ ở Trung An, 43 tên khác bỏ xác ở Tân Phú Trung, du kích Thái Mỹ chiếm đồn Bình Thượng. Tháng 11/1969 đội thiếu niên Trung An do em Thương Phới Lâm phụ trách tiêu diệt 2 ác ôn, đánh vào sở chỉ huy đoàn 228 của ngụy, diệt và làm bị thương 20 tên.
Trong năm 1969, địch gom 4.000 nóc gia vào các ấp chiến lược vùng chúng kiểm soát, còn 3.900 nóc gia khác thì bị khoanh tại chổ. Vượt qua muôn vàn gian lao thử thách của những ngày khốc liệt năm 1969, quân dân Củ Chi cũng có nhiều mất mát. Lực lượng du kích ở một số xã đã bị lột xác từ 4 đến 7 lần, riêng trung đội nữ du kích cũng đã lột xác 5 đến 7 lần; lớp này ngã xuống, lớp khác lại xông lên, luôn luôn bảo đảm lực lượng tác chiến tiêu diệt địch. Với sự hy sinh to lớn đó, Củ Chi được Trung ương cục đánh giá như sau: “Không ai được quyền phủ nhận sự chấp nhận hy sinh cao nhất của Phân khu I, mà trong Phân khu I, Hóc Môn và Củ Chi là chấp nhận hy sinh nhiều nhất”
Năm 1970, Mỹ ngụy mở rộng chiến tranh sang Campuchia, chúng ráo riết giành quyền kiểm soát quốc lộ 22. ở Củ Chi chúng tăng cường thêm chiến đoàn 15 và 22, máy bay phân nhau hoạt động, tăng cường thả chất độc ở vùng giải phóng.
Bằng nổ lực rất cao của cán bộ và nhân dân, vượt qua những ngày khốc liệt 1969, phong trào cách mạng ở Củ Chi được củng cố và phát triển, đưa phong trào lên từ năm 1970. Mỹ mở cuộc càn vào Sông Bé, đây là cuộc hành quân chót, sau đó chúng xuống thang chiến tranh, tình hình bắt đầu dịu lại. Về phía Huyện, Bí thư Huyện ủy Bắc Chi lúc bấy giờ là đồng chí Nguyễn Văn Luân, Bí thư Huyện ủy Nam Chi là đồng chí Nguyễn Văn Thắng. Sau đó hai Huyện ủy đã thống nhất đề ra chủ trương, củng cố lại các ban ngành. Về quân sự, rút du kích lên xây dựng lực lượng bộ đội địa phương. Sau khi có chủ trương của Huyện ủy, bộ đội địa phương huyện xây dựng được một tiểu đoàn. Các ban ngành cũng được củng cố và sắp xếp lại: thanh niên, nông hội, phụ nữ... ở các xã, thì các xã ủy cũng được củng cố và gây dựng lại, lực lượgn du kích xã cũng được tổ chức. Ngày 12/1/1970, du kích Phước Thạnh đánh mìn 1 trung đội biệt kích Mỹ diệt 15 tên. Du kích Trung An và Hòa Phú đánh địch bằng mìn tự tạo. Chỉ tính từ 19/12/1969 đến 25/2/1970 đã diệt và gây bị thương 57 tên Mỹ, phá hủy 20 xe các loại.
Bước sang thời kỳ này, địch thi hành âm mưu bình định, công tác trọng tâm của huyện là: “chống phá bình định”. Huyện ủy cử cán bộ xuống cơ sở để lãnh đạo, khẩu hiệu lúc này là “xông lên phía trước, lướt hiểm nguy, bỏ đường số 8”. Nhờ có chủ trương đúng nên toàn huyện đã dấy lên một phong trào chống phá âm mưu bình định của giặc. Ngày 18/3/1970, 1 tiểu đoạn Mỹ tăng viện lên ủi phá vùng Bàu Tròn bị du kích Củ Chi vây đánh suốt 17 ngày, diệt 4 tên Mỹ, phá hỏng 1 xe tăng, 16 xe ủi đất. Cuối cùng bọn địch phải bỏ dở rút về. Phong trào diệt bọn ác ôn, bọn cán bộ bình định được dâng lên, chỉ trong tháng 3/1970, hoạt động của du kích mật Củ Chi đánh mìn, lựu đạn, súng ngắn, diệt được 20 tên bình định, một số tên ác ôn khác ở ấp Cây bài (Phước Vĩnh An) và Tân Quy (Tân Thạnh Tây), phá hàng mảng đồn bót của địch ở đừơng số 2. Phong trào chống phá bình định phát triển, bên trong ta nắm lực lượng địch, bên ngoài đẩy mạnh 3 mũi tiến công (đấu tranh quân sự, chính trị và binh vận). Có đêm, lực lượng vũ trang đánh bót này, mà ở bót khác, mũi chính trị, binh vận hù nhát, tác động địch, buộc chúng phải bỏ chạy.
Ngày 3/5/1970, C7 thuộc bộ đội địa phương tập kích tiểu đoàn 2, trung đoàn 50 sư đoàn 25 ngụy ở Trung Hòa, diệt được 47 tên, gây bị thương 17 tên khác. Các đơn vị bộ đội chủ lực, thường xuyên về phối hợp với lực lượng địa phương, học đã tiến đánh nhiều trận lớn, liên tục tiêu diệt địch ở khắp các địa bàn lộ 8, lộ 15, hàng trăm tên địch bị tiêu diệt ở Phú Hòa Đông, Nhuận Đức, Phước Vĩnh An, Tân Thạnh Đông, Tân An Hội. Những tháng cuối năm 1970, phong trào diệt địch càng nổi lên một cách mạnh mẽ, hàng loạt đồn: Bình Thượng xã Thái Mỹ, Phước Hưng xã Phước Thạnh, Phú Hòa Đông bị bộ đội địa phương và du kích mật tiêu diệt. Ngoài ra, lực lượng ta còn chặn đánh tập kích ở Thái Mỹ, Phước Thạnh, Trung Lập Thượng, diệt gần 50 tên và làm nhiều tên khác bị thương. Du kích mật gài mìn ở quán nước Trung Hòa diệt gọn 17 tên bình định. Du kích Phú Hòa Đông đột nhập ấp chiến lược, 1 trung đội phòng vệ dân sự ra hàng.
Đến ngày “Quốc khánh” của Nguyễn Văn Thiệu 1/11/1970, kẻ địch ở Củ Chi bắt nhà nào cũng phải treo cờ 3 que từ 2 ngày hôm trước. Bọn tề điệp, thám báo ác ôn lúc nào cũng rình mò xem nhà nào lơ là việc treo cờ. Một số nhà chúng liệt vào diện “đầu bò”, lập tức bọn thông tin tuyên truyền xách lọ sơn vàng úa đi kẻ cờ trên tường hoặc cả trên nóc nhà, mái tôn của họ từ mấy hôm trước. Không làm như thế, khi quan trên về kiểm tra, thấy có gia đình nào ở đây mà không có cờ ba que, thì bọn tay sai chóp bu Củ Chi sẽ bị cách chức ngay tức khắc. Nghe hôm đó có tên Đặng Như Thuyết, đại tá chiến đoàn trưởng chiến đoàn 50 ở Hậu Nghĩa sẽ đến đây dự tiệc và bàn việc tổ chức phối hợp các cuộc hàng quân càn quét. Còn ở Sài gòn thì có quân lực Việt Nam Cộng hòa “duyệt binh”.
Bọn lính ở Củ Chi cũng luyện tập đội ngũ hàng ngang, hàng dọc, quay bên phải, bên trái đi đều “một hai” rồi bồng súng chào trên đường phố. Chúng lại đưa về đây một đại đội cảnh sát ác ôn để tăng cường việc bảo vệ, mặt đứa nào cũng bênh vênh, váo váo.
Lời nói của đồng chí Ba Luân Bí thư Huyện ủy hôm giao nhiệm vụ còn văng vẳng bên tai mọi người: “Hơn hai chục năm, sống trong cảnh đen tối lầm than của chế độ địch, đồng bào Củ Chi sẽ cung sướng biết bao, khi nhìn thấy lá cờ Mặt trận tung bay giữa Thị Trấn Củ Chi, trong cái ngày mà bọn địch gọi là Quốc khánh của chúng, lá cờ là tin chiến thắng, là niềm tin, là lời kêu gọi của Tổ quốc đối với chúng ta, nhưng cũng là nổi kinh hoàng thất bại đối với địch”.
12 giờ đêm, rạng sáng ngày 1/11/1970, được sự giúp đỡ của cơ sở, một tổ 4 người do Nguyễn Thị Nê chỉ huy, đã cải trang đột nhập vào thị trấn, treo lá cờ Mặt trận trên ngọn cây điệp cao.
Sáng đến, lá cờ Mặt trận tươi thắm tung bay. Nhân dân đổ ra đường, ra sân ngước mắt nhìn lá cờ. Bọn lính trong quận tràn ra đường, để chuẩn bị đón tên đại tá Thuyết. Lúc ấy chúng mới phát hiện ra lá cờ cách mạng, cao nhất giữa thị trấn này. Tên thiếu tá Lê Xuân Sơn, quận trưởng, gầm lên chửi bọn cấp dưới thậm tệ. Chúng cho một trung đội lính ngụy ra hạ cờ, nhưng không đứa nào dám trèo lên, nó mới chỉ một tên lính có bộ dò cao nhất leo lên, thằng lính bất đắc dĩ phải bước ra khỏi hàng. Hắn lừ đừ dựng khẩu súng Mỹ vào hàng rào, rồi tháo chiếc thắt lưng ngoài, động tác uể oải. Mới vừa bước vào, dang hai tay ôm gốc điệp, thì bàn chân giẫm phải kíp mìn dưới đất, một ánh lửa xanh lè lóe lên. Hai quả mìn cùng nổ một lúc. Tên sĩ quan chỉ huy và 15 đứa tan xác, 9 đứa bị thương. Bọn lính cả quận náo động, hoang mang cực độ. Tên thiếu tá Sơn như điên. Lúc ấy có mấy chiếc xe “Jeep” hộ tống chiếc xe “Ford” màu đen bóng loáng của tên đại tá Thuyết vừa đến, chẳng có ma nào đón hắn theo nghi thức đã định. Thuyết dừng lại không đầy 5 phút, đã hốt hoảng chuồn về Sài gòn.
Một giờ chiều, bọn lính mới thu nhặt hết xác chết tung tóe, và 2 giờ chiều chúng mới hạ được lá cờ Mặt trận xuống khỏi ngọn cây điệp.
Ngày 20/12/1970, sư đoàn bộ binh 25 Mỹ bắt đầu rút khỏi mảnh đất Củ Chi và được thay thế bằng sư đoàn 25 bộ binh ngụy. Các đơn vị trực thuộc nó là trung đoàn 46, 49, 50, chúng rải quân dọc quốc lộ 22 kể từ Củ Chi qua Đức Hòa (Long An) lên Trảng Bàng, Gò Dầu Hạ, thị xã Tây Ninh đến giáp tận biên giới Campuchia. Tại căn cứ Đồng Dù, chúng đặt Sở chỉ huy của sư đoàn cùng các cơ quan trực thuộc, Sở chỉ huy của trung đoàn 50 và toàn bộ trung đoàn 46. Tổng số quân đồn trú ở Củ Chi vào khảng trên 3.000 tên.
Cuối năm 1970, về thực lực, bọn địch ở Củ Chi có khoảng 8.000 quân chính quy và trên 5.000 quân địa phương. Tất cả số quân này, hành quân lưu động hoặc đóng tại căn cứ Đồng Dù và các chốt: Cây Me (Phú Hòa Đông), Bàu Giang (Trung An), Trung Hưng (Trung Lập), Đồng Chùa (Phước Thạnh). Ngoài ra còn đóng rải rác ở 126 tua và đồn bót (mỗi tua có từ 1 đến 2 tiểu đội, mỗi đồn có từ 1 trung đội đến 2 đại đội) dọc theo các trục giao thông quan trọng như: quốc lộ 22, liên tỉnh lộ 7, 8 và 15. Ngoài ra địch còn đặt quân ở các cụm pháo, chúng có cụm pháo lớn nhất ở Đồng Dù, gồm 30 khẩu từ 105 ly đến 203 ly, rồi cụm pháo ở Tân Quy, Đồng Chùa, Trung Lập, mỗi cụm có từ 5 tới 10 khẩu. Cơ giới các loại có khoảng 300 chiếc, trong số đó có 150 là xe tăng và thiết giáp, máy bay trực thăng và máy bay cần cẩu có độ 100 chiếc, tàu xuồng chiến đấu gần 100 chiếc.
Cuối năm 1970, đầu năm 1971, lực lượng cách mạng ở Củ Chi được củng cố về tổ chức, tăng cường về trang bị vũ khí và đẩy mạnh chiến tranh du kích. Khí thế cách mạng sôi nổi hơn, ở những vùng lõm giải phóng, có đất sản xuất làm ăn nhưng lại không có dân, Huyện ủy chủ trương: đưa quần chúng trở về đó làm ăn, xây dựng làng chiến đấu. Muốn vậy, các lực lượng vũ trang phải tăng cường hoạt động, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy đấu tranh với địch.
Mạng lưới liên lạc từ huyện tới các xã, ấp đã được thông suốt, các xã đều phát triển thêm đảng viên. Những lõm chính trị, lõm du kích được củng cố và phát triển. Những đội du kích bắn tỉa, đánh trái, đội pháo, các độ du kích vành đai chủ động đánh địch, đội du kích mật đánh ngay tại căn cứ địch, đã giam chân địch, góp phần làm thất bại chiến thuật “vết dầu loang” của chúng. Các khu ấp chiến lược trong toàn huyện, nhân dân đồng loạt nổi dậy đấu tranh, nhiều gia đình bung về ruộng vườn cũ làm ăn. màu xanh cây cối bắt đầu xuất hiện, sự sống của con người trở lại và được vươn lên. ở một số vùng trắng trước đây, nay được bà con về sinh sống, canh tác, vùng giải phóng được xây dựng, xã Phú Mỹ Hưng, An Nhơn tây đã có trường phổ thông cấp 1. Từ đây Củ Chi củng cố thế trận, tổ chức lực lượng, tiếp tục đánh địch, bảo toàn và phát triển lực lượng của mình. Hoàng loạt tên tình báo, gián điệp, tề ngụy, ác ôn đều bị ta trừng trị. Chỉ trong tháng 1/1971, ta đã diệt 7 tề xã, rồi rải rác ở khắp nơi như Bàu Tre, Bắc Hà (tân An Hội), Phước Vĩnh An, Tân Quy (Tân Thạnh Tây), Phước Hiệp, Tân Thạnh Đông, một số tên bị ta diệt. Huyện ủy chủ động đưa tiếng nói của Đảng vào ấp Bắc Hà, đẩy mạnh phong trào cách mạng ở đây theo kịp các địa phương khác.
Du kích các nơi tiếp tục giáng cho địch những đòn thích đáng. Ngày 19/4/1971, du kích xã An Phú bắn rơi 5 trực thăng tại Xóm Thuốc. Xóm Chùa đánh mìn hư 1 xe, diệt 9 tên ngụy gây bị thương 12 tên khác. Rồi đến những trận bắt sống xe tăng địch ở Rừng Làng (An Nhơn Tây), dùng mìn tự tạo đánh diệt 33 xe tăng, xe ủi đất ở Vân Hàn, Trung Hưng (Trung Lập Thượng), đánh sở chỉ huy của tiểu đoàn 1 trung đoàn 46 ngụy ở ấp Phú Thuận (xã Phú Mỹ Hưng), diệt hàng chục tên torng đó có cả cố vấn Mỹ.
Đấu tranh chính trị lại rộ lên, phong trào lan sâu vào học sinh và giáo chức ở Thị Trấn Củ Chi. Học sinh bãi khóa đòi được tư do cắm trại, ca hát, vui chơi, các em công khai chống đôn quân bắt lính, chống lệnh tổng động viên của địch.
Tháng 5/1971, ngụy quyền đưa 240 xe tăng có máy bay yểm trợ, để càn phá địa hình của ta ở các xã Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây, bộ đội địa phương Củ Chi chặn đánh, bắn cháy 31 xe tăng và xe quân sự, bắn bị thương 2 trực thăng, hạ 100 tên địch.
Vào mùa khô 1971-1972, địch đã bắn vào xã Nhuận Đức hàng ngàn trái pháo, ném hàng trăm tấn bom. Du kích xã đã đánh 45 trận, diệt và gây bị thương 181 tên, bắt sống 2 tên, bắn cháy 21 xe các loại.
Cuối năm 1971, lực lượng cách mạng đã phát triển đều về mọi mặt, Củ Chi tổ chức đại hội chiến sĩ thi đua, để tổng kết thành tích đúc rút kinh nghiệm, triển khai công tác chuẩn bị tích cực cho năm 1972.
Sau những thất bại to lớn trên các chiến trường, địch lâm vào thế khủng hoảng, suy sụp tinh thần nhanh chóng. Tháng 3 năm 1972, Trung ương Đảng và Trung ương Cục miền Nam đã chỉ đạo cho toàn miền nam mở chiến dịch tổng tiến công từ mùa hè mang tên anh hùng Nguyễn Huệ. Tháng 4/1972, Thành ủy thành phố Sài gòn ra Nghị quyết Bình Giã 5, nên việc giải thể các phân khu để tạo thế hoạt động thuận lợi cho quân khu và các địa phương.
Bước vào năm 1972, theo chỉ thị của trên, Củ Chi chuẩn bị lực lượng phối hợp với bộ đội chủ lực mở chiến dịch tiến công địch, kìm chân chúng ở các địa phương, tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực của ta tác chiến, nhằm phá vỡ bộ máy kìm kẹp của địch, trên các khu vực trọng điểm.
Địch tăng cường đánh phá, lùng sục địa hình bằng xe tăng, bom, pháo, tàu thuyền chạy trên sông Sài gòn thường xuyên, có lúc như con thoi. Bọn bảo an đi kích các nơi, bung ra ngoài, gài trái nhất là các khu vực xung quanh những cụm đóng quân, chúng củng cố các ban tề xã, ấp, kiểm soát và khống chế các gia đình có người tham gia cách mạng, những người ở tù được chúng thả về, lùa dân đi bầu trưởng ấp, tìm mọi cách ép buộc quần chúng đi làm tình báo, gián điệp, đánh phá căn cứ một cách lộ liễu.
Về phía ta chuẩn bị sẵn ở cơ sở, khi mở đợt phát động, bà con các xã đồng loạt đánh mõ, kẻng, trống, thùng, nổi dậy đốt tờ khai gia đình, đốt xé giấy của ngụy quyền cấp. Bọn chúng thấy quần chúng ào ào ra liền hù dọa bằng phi pháo, trực thăng nhằm uy hiếp tinh thần đồng bào. Nó chuẩn bị cấp lại giấy, bà con đấu tranh không nhận, chúng không cho giấy đi xay lúa, đồng bào lại đấu tranh tiếp. Thế quần chúng ở Tân Thạnh Đông, Tân Thạnh Tây, Phước Vĩnh An ... rất mạnh. Địch không bầu cử được trưởng ấp, quần chúng đấu tranh chính trị mạnh, chúng không kìm kẹp nổi, lúc trước đấu tranh từ 20 – 30 người, nay có cuộc lên đến 700 người. Ở xã Tân Phú Trung, địch thúc ép thanh niên phải đi phòng vệ dân sự, bà con tự giác đưa con ra vùng giải phóng, trong vòng 6 tháng được 121 người. ở Trung Hoà xã Trung Lập, quần chúng bung về ruộng vườn cũ, cất nhà theo chủ trương của ta, tên quận phản ứng bắt bọn thuộc hạ tay chân đốt phá nhưng bọn lính chịu thua lý lẽ của quần chúng, thấy hợp lý và đồng tình với quần chúng. Bà con tự do kéo đồ đạc đi , bọn tề không dám cản lại còn phụ giúp chất xếp , họ dỡ luôn cả trường học (thiếc, cây, bàn ghế...) về chỗ mình để làm trường. Năm, sáu ngày sau, ở ruộng vườn cũ đã mọc lên 500 – 600 nóc nhà, y tế Huyện xuống thăm bệnh, cho thuốc, phân chia khu vực cho bà con, hô hào đào hầm, chở tranh lợp nhà. Địch xuống thế phải nhượng bộ. Sau khi giành thắng lợi bước đầu, Đảng bộ Bắc Chi (Củ Chi) kiểm điểm thấy mới đạt kết quả ở Trung Hoà, nhiều nơi khác chưa làm được, bọn địch bắt đầu phản kích, ta phải tìm cách đối phó. Cụ thể: củng cố đoàn kết, tương trợ, làm hầm hố, học tập văn hóa, chỗ giấu gạo thóc, làm hầm nhà thưa ra. Chỉ trong vòng 1 tháng, mọi sinh hoạt đã thay đổi hẳn, tăng gia sản xuất lúa, hoa màu tốt, chăn nuôi heo gà rất mạnh.
Tình hình phá ấp chiến lược ở Nam Chi cũng lên mạnh, địch tăng cường đốt phá ở Phước Vĩnh An, Trung An II, một số nhà đồng bào bị dỡ xuống, bàn tính kế hoạch đối phó, tranh thủ bọn tề, đồng bào cất nhà trở lại. Đấu tranh tiếp, địch phải nhượng bộ, để đồng bào cất chòi với lý do đụt mưa, chứa nước uống khi đi làm đồng. Chúng quy định mỗi chòi chỉ 5 tấm đưng. Đồng bào rất mong muốn trở về vườn cũ làm ăn khỏi ách kềm kẹp, nên tha thiết về, quyết đấu tranh, cứ từng bước, từ làm chòi, tiến đến ngủ đêm, nuôi gà, trồng cây… nói chung đồng bào có nhiều sáng kiến trong đấu tranh. Vì chòi sản xuất, là tập quán chung của bà con làm ruộng rẫy ở nông thôn. Cứ lần lượt từng bước như vậy, địch không thể khủng bố được.
Trước khí thế đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng, vào tháng 4 năm 1972, học sinh trường Trung học Củ Chi cũng đấu tranh đóng cửa trường, chống tăng học phí. Nhân vụ bọn lính uống rượu thách thức với nhau, vô cớ bắn chết một học sinh ở ấp Cây Trôm , bất bình trước sự kiện trên, học sinh trường Trung học Củ Chi tổ chức biểu tình đi ngang qua dinh quận trưởng phản đối ngụy quyền giết người bừa bãi, buộc chúng phải bồi thường nhân mạng và trừng trị tên giết người. Kết quả: đích thân tên thiếu tá Cương quận trưởng đến trường gặp Ban đại diện học sinh hứa sẽ thực hiện đúng yêu sách của đoàn biểu tình.
Từ tháng 1 đến tháng 5-1972, ở Củ Chi rộ lên phong trào diệt ác, phá kềm. Du kích mật đã tiến hành 35 trận đánh, diệt 39 ác ôn. lực lượng vũ trang đã thắng địch giòn giã khi chúng càn vào Trung Lập, hàng trăm tên địch phải đền tội. Trước khí thế tiến công của cách mạng, 500 lính địch ở Củ Chi đã đào, rã ngũ. Đêm 30-4-1972, ta xây dựng nội tuyến trong hàng ngũ địch đưa 12 lính ngụy mang theo vũ khí chạy sang hành ngũ cách mạng, sau này trở thành bộ đội giải phóng. Trong thời gian này, đoàn dân công Củ Chi hơn 1.100 người đi tải đạn ở Chơn Thành, Bà Đen, Vàm Cỏ Đông về phục vụ cho chiến dịch.
Bước vào đợt 2 của chiến dịch Nguyễn Huệ (16-5), theo chỉ đạo của quân khu, lực lượng vũ trang mở rộng đánh địch, họat động sâu vào các khu vực lộ 8 Phú Hoà Đông, nhằm giữ vững vùng giải phóng, nối liền các căn cứ du kích. Quân dân Củ Chi có bộ đội chủ lực phối hợp, chủ động tấn công vào các đồn bót địch trong các ấp chiến lược, tiêu diệt và làm hậu thuẫn cho dân bung về vườn đất cũ. Kết quả có hơn 1.200 gia đình với hơn 4.000 người trở về ruộng vườn cũ sinh sống. ở Ba Sòng (An Nhơn Tây), Xóm Trại (Phú Mỹ Hưng) và Đồng Lớn Sa Nhỏ (Trung Lập Thượng) có 120 nóc nhà bám trụ từ năm 1969 đến 1972 nhiều nhất. Ngoài ra còn có ấp Tháp, Đồng Hói (Thái Mỹ), Vườn Trầu, Mây Đắng, Bàu Trâu ... xã Phước Thạnh cũng bám trụ tốt. Số gia đình bám trụ này, trực tiếp tham gia công tác cách mạng , dần dần làm sống lại vùng giải phóng.
Quân dân Củ Chi đã góp sức cùng quân dân Bến Cát giải phóng lộ 14, làm chủ khúc sông Sài Gòn, từ rạch Kè đến Dầu Tiếng và phối hợp với bộ đội chủ lực nhận chìm giang đoàn 24 của địch. Trong tháng 8 năm 1972, chi đội thiết vận xa của địch bị chặn đánh, 300 tên giặc bị loại khỏi vòng chiến, vùng giải phóng cũng được mở rộng tới lộ 8 Phú Hoà Đông.
Tháng 10 –1972, bước vào đợt 3 của chiến dịch, nhiều đơn vị bộ đội chủ lực về Củ Chi. Các lực lượng vũ trang địa phương tích cực hoạt động trong các ấp chiến lược, nhất là lực lượng du kích tấn công địch nhiều nơi: Phú Hoà Đông, Trung An, Tân Phú Trung, Phước An (Phước Thạnh) gây cho địch nhiều tổn thất đáng kể. Về phía nhân dân, cũng liên tục nổi dậy, khu chiến lược Suối Cụt, Lào Táo bị phá tung.
Ngày 26, 27 tháng 10 năm 1972, bộ đội địa phương đánh địch ở Tân Phú Trung, Phú Hoà Đông, Tân Thạnh Đông, diệt trên 200 tên địch và thu nhiều vũ khí quân trang, quân dụng. Tháng 12-1972, du kích xã Nhuận Đức cùng C7 huyện Củ Chi đánh một trung đoàn địch càn ủi vùng Bến Đình. Kết quả diệt 1 trung đội, bắn cháy 6 xe tăng, thu nhiều vũ khí.
Vào cuối năm 1972, phát huy thế tấn công của địch, du kích tăng cường bắn cối, pháo HT 122 ly liên tiếp vào căn cứ quân sự địch ở thị trấn Củ Chi, Phú hoà Đông, làm cho địch thiệt hại nhiều về người và của. Vùng giải phóng được mở rộng nối liền từ Nam Chi, Bắc Chi (Củ Chi) đến Trảng Bàng. Chiến tranh du kích tiếp tục phát triển, ngụy quân, ngụy quyền hoang mang dao động, nhiều tên xã trưởng bỏ việc về nhà làm ăn.
Đầu năm 1973, cuộc tiến công của quân dân Củ Chi càng mạnh mẽ hơn. ở Phú Hoà Đông, bọn tề ngụy bị diệt gọn; ở Tân Phú Trung, phó phân chi cảnh sát bị giết, ở Tân Thạnh Đông, 1 tên ấp trưởng và bốn tên an ninh bị diệt. Trên sông Sài gòn, 2 tàu thuộc giang đoàn 22 của địch bị nhận chìm. Các ấp chiến lược ở lộ 7, lộ 8 bị phá. Trong dịp này, ban tham mưu quân sự đã mở lớp huấn luyện cho cán bộ cơ sở ở Củ Chi làm thí điểm. Quân khu II mở hội nghị binh vận, rút ra nhiều kinh nghiệm bổ ích.
Vượt qua những khó khăn gian khổ 1969- 1970 bằng mưu trí cộng với lòng dũng cảm, ý chí kiên cường của cán bộ, đảng viên, nhất là cấp ủy địa phương, kết hợp với lòng trung thành, tin tưởng tuyệt đối vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân Củ Chi, phong trào đấu tranh cách mạng ở đây, dần dần được phục hồi trở lại và ngày càng phát triển rầm rộ, lớn mạnh vào năm 1971, lực lượng ấy lại càng hùng hậu qua đợt tiến công và nổi dậy năm 1972, đã góp phần quan trọng vào chiến công chung của toàn miền Nam lúc bấy giờ.
Trải qua một quá trình cách mạng lâu dài, chưa bao giờ Củ Chi lại có một lực lượng cách mạng lớn mạnh như hồi này, lực lượng ấy ở thế bố trí chiến lược mới rất thuận lợi, vùng giải phóng được mở rộng, vùng địch ngày càng bị thu hẹp. Thế cài răng lược ngày càng dày đặc, càng có lợi cho ta, bất lợi cho địch, tạo điều kiện cho nhân dân nổi dậy, giành quyền làm chủ về mình.
V. Đảng bộ Huyện Củ Chi lãnh đạo nhân dân phát huy thắng lợi của hiệp định Paris, chủ động tham gia vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử ( từ tháng 1/1973 đến tháng 4/1975 )
1.Âm mưu của địch sau khi ký hiệp định Paris:
Hiệp định Paris thực tế là một văn bản trong đó Hoa Kỳ cam kết chấm dứt mọi dính líu về quân sự, chấm dứt can thiệp vào nội bộ miền Nam Việt Nam. Đối với nhân dân ta, sau 18 năm chống Mỹ đầy gian khổ, hy sinh, đây là một thắng lợi hết sức to lớn, một thuận lợi rất cơ bản để đi tiếp chặng đường cuối cùng giành toàn thắng.
Tuy nhiên, âm mưu và ý định của Mỹ giữ miền Nam Việt Nam thông qua biện pháp tiếp tục Việt Nam hóa chiến tranh không hề thay đổi, Mỹ và chính quyền Sài Gòn tiếp tục thực hiện chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh” trong hoàn cảnh mới với âm mưu chia cắt lâu dài nước ta.
Mỹ vi phạm Hiệp định Paris, gấp rút tăng cường máy bay, vũ khí, đạn dược… để trang bị cho quân ngụy Sài Gòn. Được sự yểm trợ của Mỹ, thực hiện chính sách “tràn ngập lãnh thổ” (1/1973) rồi “kiện toàn an ninh lãnh thổ” (1974), đẩy mạnh “bình định đặc biệt”, tiến hành hàng loạt các cuộc càn quét lấn chiếm.
Từ cuối năm 1972, chuẩn bị ký Hiệp định Paris, Mỹ đã tăng gấp cho quân ngụy 626 máy bay các loại, 500 khẩu pháo, 400 xe tăng, xe bọc thép và nhiều tàu chiến, vật tư dự trữ chiến tranh lên đến 2 triệu tấn. Mỹ và ngụy quyền đã vạch “Kế hoạch Hùng Vương”, chồm lên giành đất nước khi hiệp định có hiệu lực. Ngay khi ký hiệp định, Thiệu đã tuyên bố lập trường “ bốn không” ( không liên hiệp, không thương lượng với đối phương, không có hoạt động của Cộng Sản hoặc đối lập ở trong nước, quan trọng hơn hết là không để lọt vào tay đối phương bất cứ lãnh thổ nào, tiền đồn nào do quân đội Việt Nam cộng hoà giữ) và nêu “mục tiêu quốc gia” là “ chiếm và bảo vệ tối đa lãnh thổ ” được cụ thể hóa trong “Kế hoạch Lý Thường Kiệt” với 5 biện pháp chiến lược lớn (lấn chiếm, bình định là biện pháp trung tâm – xây dựng cả ngụy quân và ngụy quyền mạnh để làm trụ cột – phá hoại Hiệp định Paris về Việt Nam ở những điểm nào không có lợi cho chính quyền Sài gòn .
Phục hồi kinh tế miền Nam năm 1973-1974, đồng thời bao vây, phong tỏa kinh tế Mặt trận dân tộc giải phóng. Duy trì “lực lượng răn đe” bằng không quân, hải quân Mỹ ở Đông Nam á. Mục tiêu cuối cùng của chúng là “chiến tranh tàn lụi” và “Việt cộng chỉ còn như một Đảng đối lập ” vào năm 1974 hoặc 1975. Thực hiện âm mưu đen tối của địch, ngay trước và sau Hiệp định Paris được công bố, địch đã ồ ạt tung quân thực hiện kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” hòng lấn chiếm các vùng tranh chấp các xã, ấp giải phóng ở Củ Chi.
2. Chủ trương của ta:
Theo tinh thần chỉ thị 02/CT-73 của Thường vụ Thành ủy ngày 20 tháng 01 năm 1973 (sau chỉ thị 02, ngày 9 tháng 11 năm 1973 của Trung ương cục), trước mắt phải gây khí thế phấn khởi, đưa phong trào quần chúng đi lên, tạo thế và lực mới, làm suy sụp thêm một bước thế và lực của địch, làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, làm lỏng kềm kẹp và giành quyền làm chủ của quần chúng ở cơ sở, tạo điều kiện đưa cách mạng lên cao trào. Phương châm là: Đứng vững trên thế vũ trang, tấn công mạnh về chính trị, binh vận dựa vào pháp lý của Hiệp định; tấn công phải đi đôi với xây dựng, phát triển và bảo toàn lực lượng. Cần phải đề phòng hai khuynh hướng: sử dụng vũ trang bừa bãi hoặc không đứng vững trên thế vũ trang. Không dám dùng lực lượng vũ trang đánh trả địch bung ra lấn chiếm vùng giải phóng, bắt bớ cán bộ, đồng bào.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 21 của Ban chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ tình hình miền Nam có thể phát triển theo hai khả năng:
Một là ta từng bước buộc địch phải thi hành Hiệp định Paris về Việt Nam.
Hai là xung đột quân sự ngày càng tăng cường mở rộng, ta phải tiếp tục chiến tranh cách mạng một thời gian nữa để đánh bại Mỹ Ngụy, giành thắng lợi hoàn toàn.
Tình hình phát triển theo khả năng nào đều tùy thuộc vào thực lực và sự đối phó của ta và điều quyết định trước hết là ta phải nhận rõ cách mạng miền Nam chỉ có thể giành thắng lợi bằng con đường cách mạng không ngừng, bằng bạo lực dựa vào sức mạnh chính trị và sức mạnh vũ trang của nhân dân, tận dụng phát huy những nhân tố mới, thuận lợi mới do Hiệp địng Paris mang lại.
Âm mưu nhất quán của Mỹ ở miền Nam Việt Nam là tiếp tục sử dụng ngụy quyền Sài gòn làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới, tìm mọi cách xóa bỏ vùng giải phóng và lực lượng vũ trang nhân dân ta, xóa bỏ chính quyền nhân dân, biến miền Nam thành một quốc gia riêng biệt thân Mỹ, được Mỹ viện trợ về quân sự, kinh tế, tài chính, để Mỹ vẫn bám lấy miền Nam lâu dài mà tránh được nguy cơ phải trực tiếp tham gia một cuộc chiến tranh qui mô lớn.
Nhiệm vụ cơ bản trong thời gian trước mắt của ta là: đoàn kết toàn dân, tiếp tục đấu tranh trên ba mặt chính trị, quân sự, ngoại giao, tùy lúc, tùy nơi và kết hợp các mặt trận đó với nhau một cách hết sức chủ động và linh hoạt, nắm vững và giương cao ngọn cờ hoà bình, độc lập, hoà hợp dân tộc, kiên quyết đánh bại mọi âm mưu và hành động của địch phá hoại Hiệp định Paris. Đồng thời, giữ vững và phát triển lực lượng cách mạng về mọi mặt, thắng địch từng bước, chuẩn bị điều kiện đầy đủ nhất để có thể chủ động đối phó với địch trong mọi tình huống, sẵn sàng đưa cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
3. Đảng bộ Củ Chi lãnh đạo nhân dân đấu tranh phát huy thắng lợi của Hiệp định Paris, chủ động tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử:
Quán triệt tinh thần Nghị quyết của Trung ương, tại Củ Chi sau khi hiệp định Paris được ký kết, cấp ủy được củng cố lại, Nam chi và Bắc chi cũng được thống nhất. Đồng chí Nguyễn Văn Luân được cử làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Thắng Phó bí thư phụ trách quân sự, đồng chí Nguyễn Văn Rô Phó bí thư phụ trách công an.
Hiệp định Paris được ký kết nhưng ở Củ Chi vẫn không yên tiếng súng. Ngay sáng 28-01-1973, địch đã xua quân đánh phá vùng giải phóng của ta ở Bàu Tròn ( Nhuận Đức ), Cây Da (Tân Phú Trung), Vườn Trầu (Phước Thạnh), Bến Than (Hoà Phú)… Khi Thiệu đưa ra kế hoạch tràn ngập lãnh thổ, đẩy mạnh bình định, đặc biệt chúng huy động toàn bộ quân địa phương và 40% quân chủ lực càn quét, lấn chiếm vùng giải phóng. Ra sức phá hoại căn cứ du kích , tăng cường bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ, trắng trợn vơ vét thóc gạo của nhân dân. Chúng lập trên 11 đồn bót trên toàn Củ Chi, riêng ở các xã, chúng thành lập các phân chi khu quân sự.
Chúng tung bọn chiến tranh tâm lý, tuyên truyền nói xấu cách mạng, vi phạm ngừng bắn, tổ chức nhiều cuộc hành quân tổng hợp, chuẩn bị phong toả vùng căn cứ du kích. Bầu trời Củ Chi, máy bay quần đảo thường xuyên và nơi đây là giao điểm pháo của mạng lưới pháo binh địch từ Đồng Dù, Lai Khê, Chà Rầy, Rạch Bắp, Hậu Nghĩa…
Nhân dân cả nước nói chung và nhân dân Củ Chi nói riêng rất vui mừng vì thắng lợi của ta buộc địch phải ký Hiệp định Paris, nhưng vô cùng căm phẫn khi chúng vẫn nổ súng gây tội ác. Quân thù thất bại nhưng chưa bị đánh bại hẳn, cho nên chúng càng hung hăng dốc hết sức lực, bằng mọi lực lượng cuối cùng còn lại để giành thắng lợi. Chính vì thế nên nhân dân ta với tinh thần cảnh giác cao độ, chuẩn bị tập trung lực lượng để tiêu diệt địch ngay từ trận đầu, khi chúng cố tình vi phạm Hiệp định Paris.
Sử dụng cả lực lượng quân sự, chính trị và binh vận, kết hợp 3 mũi giáp công, lại được bộ đội chủ lực phối hợp, quân dân Củ Chi đã kịp thời giáng trả địch và đánh ngay vào nơi xuất phát của những kẻ đi càn chiếm.
Ngày 28 tháng 1 năn 1973, bọn địch xua quân đến Bàu Tròn liền bị đánh bật ra. Du kích Phú Hoà Đông tập kích tiêu diệt 2 bót địch. Nhân dân liên tiếp đưa đơn lên chính quyền địch, tố cáo bọn binh lính cướp phá tài sản của nhân dân, 240 gia đình ở Hoà Phú nhất định không để lọt một hạt lúa vào tay địch. Những ngày đầu năm 1973 du kích đã tích cực đột nhập vào các ấp chiến lược, giải thích cho nhân dân và vận động gia đình có con em đi lính ngụy kêu gọi họ trở về với cách mạng, đồng thời cắm cờ Mặt trận dọc lộ 22, từ Tân Phú Trung qua lộ 8, lộ 15 tới Tân Thạnh Đông. ở xã Phước Thạnh, 2 tề xã và 5 phòng vệ dân sự xin nghỉ việc, 3 lính địa phương quân đào ngũ. ở Bàu Điều, 80 tên địch vứt súng về nhà làm ăn. ở Phước Vĩnh An, 73 tên địch bị ta bao vây, tiêu diệt.
Ngày 31- 01- 1973 quân ngụy tấn công các lõm du kích ở Trung An, 30 du kích Trung An chiến đấu ngoan cường 3 ngày 2 đêm tiêu diệt 50 tên địch.
Tháng 2 năm 1973, sư đoàn 25 bộ binh ngụy huy động 8 xe tăng M48 với 1 đại đội bộ binh cài ủi xã Trung Lập Hạ, nhưng chúng vừa ra khỏi vị trí 600m thì bị lực lượng C7 và du kích Trung Lập Hạ bắn cháy 4 xe, đẩy lùi được quân địch.
Tháng 3 năm 1973 , các nhà báo phương Tây đến Phước Thạnh thu thập tin tức, nhân dân tập trung cực lực tố cáo chính quyền Sài Gòn vi phạm Hiệp định Paris. Sau đó ít hôm, tại ấp chiến lược Trung Hoà, giữa ban ngày nhân dân tổ chức mit tinh lên án Thiệu.
Từ tháng 4 đến tháng 8 năn 1973, các lực lượng vũ trang hoạt động mạnh mẽ trên tòan Huyện. Du kích và bộ đội địa phương mở nhiều cuộc chống càn, như ở Hoà Phú, Trung An, Phú Hoà Tây, An Nhơn Tây, Tân Phú Trung tiêu diệt hành trăm tên địch, bắn hỏng nhiều xe ủi đất, trực thăng và bắt sống một số tù binh. Những trận diệt ác ôn liên tiếp diễn ra ở Tân Thạnh Đông, Phước Hiệp, Phước Vĩnh An, Tân Phú Trung.
Tháng 8 năm 1973, hội nghị tổng kết chống phá bình định của Khu ủy được triệu tập tại khu vực Căm Xe ( Dầu Tiếng ), Khu ủy giao nhiệm vụ cho 7 huyện nông thôn phải bứt rút 100 đồn tua, Củ Chi được giao là 20 nhưng với quyết tâm của mình, Huyện ủy Củ Chi đăng ký tiêu diệt 40 đồn tua. Khẩu hiệu hành động lúc này là “đánh tới đâu, chiếm tới đó, không cho địch lập lại, đánh tới đâu là đưa dân về, dân về tới đâu là xây dựng chiến tranh du kích mạnh lên, đẩy mạnh sản xuất, đứng trong ấp chiến lược ( cả mật và công khai ). Lực lượng chủ yếu là bộ đội địa phương, du kích và quần chúng các nơi đứng lên tạo thế lấy một loạt đồn tua, khởi điểm là đồn Trung Hưng ( xã Trung Lập Thượng).
Cùng với việc lấn chiếm kềm kẹp của địch, nhân dân Củ Chi đã cố ý xây dựng vùng giải phóng và phát triển sản xuất ở các căn cứ du kích. Tháng 8 năm 1973 ủy ban cách mạng lâm thời Phú Mỹ Hưng ra mắt nhân dân. Để phát triển sản xuất, chính quyền cách mạng đã tổ chức đưa người sang Tây Ninh, Campuchia mua trâu bò về cho nhân dân. Nhân dân vùng địch kiểm soát tích cực móc nối đưa hàng hoá kể cả hạt giống, phân bón ra vùng giải phóng.
Nhiều cuộc đấu tranh ngăn địch, chống càn của đồng bào cũng được nổ ra. Các cuộc càn thất bại. Hòng gỡ thế thua, ngày 10 tháng 10 năm 1973 địch điên cuồng cho ném bom vào các xã Trung Lập Thượng, Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây…
Trong vùng giải phóng, lực lượng hậu cần tại chỗ cũng được phát triển, từng nhà dân đều có chỗ cất giữ vũ khí và lương thực. Riêng hầm nhà ông Lê Văn Đạm (An Nhơn Tây) chứa được 100 giạ lúa. Những cơ sở sản xuất vũ khí vẫn hoạt động tích cực, vũ khí từ trên cung cấp cho Củ Chi ngày một nhiều.
Những tháng cuối năm 1973, hoạt động vũ trang cần mạnh mẽ hơn. Ngày 17 tháng 11 năm 1973, bộ đội địa phương phối hợp với du kích Phước Thạnh đánh địch ở Phước An bắt 13 tên, gây bị thương 1 tên, thu 38 súng, 50 lựu đạn, 200 quả M79, 2 máy truyền tin, phá hủy 1 máy đèn, đốt một kho súng có chứa 40 khẩu. Sau bộ bộ đội địa phương cùng du kích liên tục đánh địch lấn chiếm, ở Bàu Tre ( Tân An Hội ), Thái Mỹ, Trung An 2, chống càn vào vùng giải phóng diệt gần 200 tên, thu nhiều súng. Trước khí thế cách mạng sôi nổi, đánh địch trên toàn chiến trường Củ Chi, đã làm cho tinh thần địch hoang mang, dao động đến cực độ. Chỉ trong tháng 11 năm 1973, đại đội chủ lực ngụy đóng ở sở Ba Lăng và 1 trung đội ở Thái Mỹ đã rã ngũ.
Như vậy, sau khi ký hiệp định Paris, địch đã tăng cường hoạt động quân sự, nhưng ở Củ Chi chúng đã không thu được kết quả như ý muốn mà còn bị tiêu hao về quân số, sa sút tinh thần.
Sau năm 1974, Thiệu ra sức hò hét cho kế hoạch kiện toàn lành thổ, bọn lính ở Củ Chi càng điên cuồng chống phá cách mạng, khủng bố và cướp bóc nhân dân. Củ Chi phát huy thế mạnh của chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích, tranh thủ phối hợp với các lực lượng bộ đội địa phương và chủ lực , quyết tâm đẩy lùi âm mưu bình định, lấn chiếm của địch. Tranh thủ cơ sở pháp lý của Hiệp định Paris ta đã đẩy lùi có hiệu quả các cuộc hành quân của địch . Đầu tháng 2 năm 1974, địch mở cuộc càn lớn gồm 2 chiến đoàn 46 và 50 thuộc sư đoàn 25 ngụy, 2 chi đoàn xe tăng, 1 giang thuyền, 4 tiểu đoàn pháo, 5 tiểu đoàn bảo an, có sư đoàn 3 không quân yểm trợ, vào vùng phía Bắc Củ Chi để cướp lúa và tuyên truyền chống cộng, bị nhiều tốp đồng bào đấu tranh chống lại. Trận càn kéo dài 12 ngày. Địch bị thất bại nặng nề, gồm 4 tàu bị đánh chìm, 50 tên lính bị bắn chết và bị thương, làm rã ngũ 80 tên lính ngụy. Đặc biệt nhờ vận dụng và biết kết hợp tốt ba mũi giáp công, nhoài đấu tranh chính trị vũ trang ra, trong năm này công tác binh vận phát triển. Quần chúng gia đình binh sĩ tin tưởng, phấn khởi trước thắng lợi của ta, thấy rõ sự suy yếu và thất bại của địch, tin tưởng chính sách 10 điểm, thấy rõ vùng giải phóng là chỗ dựa cho con em họ. Phong trào thân vận cũng đang phát triển, bàn bạc sâu rộng khắp, các ngành giới trong Huyện tìm cách đưa con em về.
Đối với binh sĩ, do tác động của ta trên chiến trường chung, trực tiếp gần đây là Bến Cát, Tây Ninh và những khó khăn trực tiếp nội bộ. Việc từ chức của Nixon làm cho binh sĩ ngày càng nhận thức được tình hình mà bỏ hàng ngũ địch trở về với cách mạng, với gia đình và vào vùng giải phóng ngày càng đông.
Chỉ đạo của trên đối với Huyện lúc này phải là: phải cho chuyển biến mạnh việc diệt ác, phá kềm, chuyển thế tranh chấp yếu thành tranh chấp mạnh, đưa thế làm chủ của quần chúng lên. Từ đó khai thác tốt những thuận lợi của tình hình địa phương, đồng thời cũng cố xây dựng phát triển bộ máy binh vận từ Huyện xuống Xã, ấp, cơ sở nội tuyến trong các sắc lính, tề, tạo điều kiện tốt tiến lên giành những bước thắng lợi lớn hơn, chủ yếu là ấp.
Ban binh vận Củ Chi lúc này rất phát triển, 14/22 xã có Ban binh vận, mỗi ban binh vận có từ 2 đến 3 đ/c, 5/12 xã có 1 xã ủy viên cùng 1 đến 2 cán bộ phụ trách ban binh vận xã. Có 3 xã co thường vụ xã ủy phụ trách binh vận như Phước Vĩnh An, Tân An Hội, Thái Mỹ. Ngoài ra đều có cán bộ tổ binh vận ấp như : Thị trấn Củ Chi, xã Tân Thạnh Tây, Phú Hoà Đông , Trung An, Hoà Phú, Tân Thông Hội, Phước Hiệp, Phước Thạnh, Bình Mỹ, Trung Lập Thượng, Trung Lập Hạ, An Nhơn Tây, Nhuận Đức, Phú Mỹ Hưng, An Phú, Tân Thạnh Đông, Tân Phú Trung.
Cuối tháng 3, đầu thánh 4 năm 1974, địch mở nhiều cuộc càn vào khu vực Bàu Trăn, Cây Quéo, gò Dình, Xóm Bưng (Nhuận Đức ), càn phá địa hình ở xã Phước Vĩnh An, Suối Cụt, Mít Nài (xã Phước Thạnh), ấp Ràng (xã Trung Lập Thượng) đều bị áp lực của du kích rất mạnh đẩy lùi và gây cho chúng nhiều thiết hại.
Với thế tiến công, du kích thọc sâu vào đánh địch ở các ấp chiến lược Trung An, ấp Bàu Điều xã Phước Thạnh, xã Trung Lập Thượng giành được một số thắng lợi cụ thể. Trong tháng 4 năm 1974, các gia đình có chồng con đi “phòng vệ dân sự” đấu tranh chống tề xã Tân An Hội và Thị trấn Củ Chi bắt người thân của họ đi càn.
Vào tháng 5 năm 1974, địch tăng cường cho căn cứ Đồng Dù bộ chỉ huy sư đoàn 25 ngụy, 1 tiểu đoàn bộ binh, 2 chi đoàn xe bọc thép. Tiếp tục mở cuộc càn khác, ủi phá địa hình của ta, lấn sâu vào vùng giải phóng, từ cấp đại đội đến cấp tiểu đoàn vào Trung An, Thái Mỹ phía Nam lộ 7, Bến Đình, Rừng Làng, Xóm Bà Thiên xã Nhuận Đức, có trận càn kéo dài 15 ngày, nhưng kết quả chúng đều thất bại thảm hại, nhiều tên phải đền tội. Ngày 29 tháng 5 năm 1974, quân giải phóng tập kích bót Mũi Côn Tiểu xã Phước Hiệp, diệt 12 tên ngụy, thu 10 súng, một máy truyền tin, 1 mìn và 400 viên đạn các loại…
Trong tháng 6 năm 1974, bộ đội địa phương đi kết hợp cùng du kích tại lộ 22, đoạn Rọc Mía ( Phước Hiệp – Phước Thạnh ) và 2 cụm quân của tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn 50 ngụy đang càn ở Bến Đình, diệt 10 tên, làm bị thương 5 tên khác và thu một số súng cùng lựu đạn.
Ngày 26-7-1974, bộ đội địa phương Củ Chi và du kích xã Tân Thông Hội đánh ấp chiến lược, diệt 6 tên dân vệ, làm bị thương 1 tên, thu 6 súng. Đến ngày 16 và 20-8-1974 lực lượng vũ trang quân khu và bộ đội Củ Chi phối hợp đánh trung tâm Mũi Lớn, bót Xóm Huế của ngụy và thị trấn Củ Chi và diệt gọn 1 trung đội nghĩa quân, 2 tên đại úy cùng một số tên cảnh sát và phòng vệ dân sự, thu 3 máy truyền tin và nhiều súng các loại.
Tháng 9-1974, Thành ủy tổ chức hội nghị có sự tham dự của Trung ương cục, về việc thực hiện Nghị quyết 12 của Bộ Chính trị và phát đông hpong trào phá rã phòng vệ dân sự. Diệt ác phá kềm trong quần chúng ở nông thôn.
Để đánh phá các cơ sở cách mạng trong các vùng chúng tạm chiếm, đồng thời bố ráp vây bắt thanh niên đi lính, phục vụ cho chế độ Sài gòn, ngày 5-9-1974, địch mở đợt hành quân cảnh sát toàn huyện Củ Chi bắty bớ nhiều người. Chỉ trong ngày 8-9-1974, địch bị ta chặn đánh ở lộ 22 và Đồng Lớn xã Trung Lập Thượng, ta diệt được 23 tên của trung đội tiền tiêu của tiểu đoàn 3, trung đoàn 50 ngụy và đẩy lùi 2 đại đội ngụy bảo an đi càn.
Ngày 12-9-1974, đại đội địa phương Củ Chi và du kích các xã Trung Lập Hạ, An Nhơn Tây, Nhuận Đức, đột kích vào ấp chiến lược phát động quần chúng nổi dậy cảnh cáo tề xã. Trước sức mạnh của quần chúng, bọn tề xã không còn kênh kiệu quát nạt, phá phách như trước.
Từ 15-9-1974 đến 15-10-1974, Thành ủy tổ chức hội nghị tại Củ Chi, có 300 đại biểu các vùng nông thôn về dự nhằm phê phán thái độ co thủ mà phải tiến lên, san bằng đồn bót địch, kiên quyết không cho chúng đóng lại.
Vào những tháng cuối năm 1974, hoạt động của lực lượng cách mạng ngày càng được phát huy mạnh mẽ, quân chủ lực đã kết hợp cùng bộ đội địa phương và du kích, chủ động đánh địch ở nhiều nơi trong địa bàn xã Hoà Phú, đồn Phước Hưng, Bàu Điều xã Phước Thạnh, đồn Trung Hoà xã Trung Lập Thượng, đồn Truông Viết xã Phước Hiệp, đồn xóm mới xã An Nhơn Tây, đồn Mũi Lớn, Bàu tre xã Tân An Hội, đồn Bắc Hà 2 , đồn Phú Hoà Đông, trạm kiểm soát Tân Phú Trung, chi khu cảnh sát đặc biệt thị trấn Củ Chi, đã san bằng nhiều đồn bót, tiêu diệt hàng trăm tên địch, làm nhiều tên khác bị thương, thu hàng chục súng và nhiều phương tiện quân sự. Đến nỗi tên tỉnh trưởng ngụy Nguyễn Xuân Sanh ở Hậu Nghĩa hoảng sợ, lệnh cho ngụy quyền ở cơ sở Củ Chi:
- Phải bám giữ Củ Chi bằng mọi giá.
- Liên tục càn quét, phá hủy địa hình để giành dân, lấn đất.
- Cướp lúa gạo thừa của đồng bào không cho lọt vào tay chính quyền cách mạng.
- Đặt ngụy quân kể cả công an, cảnh sát trong tình trạng báo động.
Kết quả trong năm 1974: về binh vận, diệt tề có 62 vụ, trừng trị 5 sĩ quan cấp úy, 1 thượng sĩ, 1 trung sĩ, cô lập được phòng vệ xung kích, quần chúng làm đơn thưa kiện cách chức 1 phân chi khu trưởng và nhiều ác ôn tham nhũng làm tiền; gây mâu thuẫn giữa tề với tề, tề với những tên phân chi khu. Kết quả chúng làm đơn xin nghỉ hoặc làm việc lơ là, hay đồng tình với quần chúng cô lập ác ôn. Về nội tuyến, xây dựng 94 cơ sở đều khắp trong phòng vệ dân sự, dân vệ, tề, cảnh sát, bảo an, thông tin. Về kết quả trận đánh: loại khỏi vòng chiến đấu 627 tên địch, trong đó có 30 tên cảnh sát, làm rã ngũ gần 100 tên khác, bắn cháy nhiều xe, tàu địch, bứt rút, san bằng hàng chục đồn.
Tính đến cuối năm 1974, kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” của địch không thực hiện được. Âm mưu bình định, gom dân lấn chiếm đất liên tiếp bị thất bại, bọn lính địa phương tỏ ra không đản đương nổi nhiệm vụ phòng thủ, hậu cứ địch liên tục bị ta tấn công, bọn sư đoàn chủ lực không làm nổi vai trò trợ lực, trợ chiến. Mâu thuẫn về vai trò, vị trí chiến đấu giữa hai bọn này bắt đầu bộc phát mạnh, hình thành thế vây ép địch, tinh thần chiến đấu bọn ngụy sa sút nhanh chóng, sự khủng hoảng củ ngụy quyền Sài gòn càng tác động mạnh đến sự tan rã của bọn ngụy quyền ở Củ Chi. Trong tìng thế chiến đấu càng bất lợi trên, bọn địch càng lùi sâu vào thế phòng ngự, co cụm. Hoạt động quân sự của địch chỉ mang tính chất thăm dò phản ứng của ta. Chúng tập trung vào việc tăng cường kềm kẹp, tích cực hoạt động do thám, gián điệp bằng số chiêu hồi, chiêu hàng. Mọi sinh hoạt của đồng bào đều bị kiểm soát gắt gao. Nội bộ chúng đặt trong tình trạng báo động, trực chiến 100%.
Cùng với sự phát triển trên toàn miền, tình hình chiến trường Củ Chi ngày càng thu được nhiều thắng lợi đáng kể, thế lực của Cách Mạng mỗi ngày một phát triển thuận lợi đáng kể, thế lực của Cách mạng mỗi ngày một phát triển thuận lợi hơn. Tháng 10 năm 1974, Bộ chính trị ra Nghị quyết hoàn toàn giải phóng miền Nam. Để chuẩn bị và triển khai nghị quyết cực kỳ quan trọng này, Bộ chính trị trực tiếp làm việc riêng với các đ/c lãnh đạo chủ chốt của Đảng bộ miền Nam, giữa lúc đang họp thì ngày 06-01=1975 nhận được tin ta đanh chiếm được thị xã Phước Long, tỉing đầu tiên được giải phóng ở miền Nam, mở ra khả năng có thể đáng bại hoàn toàn quân địch.
Tình hình lúc này của ta có đủ điều kiện về quân sự, chính trị, thời cơ chiến lược, thuận lợi to lớn để hoànthành Cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân ở miền Nam. Bộ chỉ huy quân khu đã giao cho Củ Chi đảm trách nhiệm vụ trọng yếu, gấp rút chuẩn bị lực lượng, truy quét địch tại địa phương, cung cấp lực lượng và mở đường cho bộ đội chủ lự tiến vào giải phóng Sài gòn.
Đảng bộ Củ Chi đã triển khai một cách mau lẹ và tỉ mỉ kế hoạch thực hiện nhiệm vụ đặc biệt này, nhanh chóng hướng các hoạt động tập trung vào các mục tiêu. Đánh bại hoàn toàn các hoạt động đánh phá bình định của địch, mở rộng vùng giải phóng, giành dân, giành quyền làm chủ tình hình. Khẩn truơng chuẩn bị lực lượng, cơ sở hậu cần, phân bố lực lượng cân đối trên các vùng, đứng chân vây ép địch. Bằng cách phát động trong lực lượng vũ trang đăng ký gia nhập đội quân xung kích giải phóng Sài gòn. Phát động trong nhân dân, giáo dục động viên con em mình gia nhập giải phóng quân và đóng góp lương thực. Nhân nhân Củ Chi đã tích cực đóng góp cho Cách mạng dưới hình thức ủng hộ hoặc cho vay, đồng thời tích cực gởi con em mình vào các lực lượng vũ trang Cách mạng.
Với phương châm chiến lược chủ đạo là phát huy sức mạnh ba mũi giáp công, tấn công địch liên tục, không cho chúng hồi sức. Trên cơ sở chuẩn bị mọi điều kiện khi thời cơ đến thì tự lực giải phóng địa phương , không do dự, chờ đợi, không cho địch chạy thoát. Lúc này lực lượng vũ trang Củ Chi gồm có: 3 đại đội bộ binh, 1 trung đội nữ, 1 trung đội biệt động, 1 trung đội cối.
Đầu năm 1975, vào ngày 13-01, du kích cùng một tổ công binh đã đánh màn hư 4 xe ủi , diệt 13 tên địch, làm bị thương một tên, thu một số vũ khí. Lúc này quân số địch có chiều hướng giảm sút, tinh thần chiến đấu của ngụy quân rệu rã, thể hiện sự hoang mang lo sợ cực độ, cho nên trong tháng 1-1975, đã có 10 lính ngụy ở Củ Chi bỏ trốn về với dân, một số tề ngụy bỏ trốn, hoặc gặp bà con “thanh minh” cầu an. Địch còn ra sức tuyên truyền vu khống ta vi phạm Hiệp địch Paris, tuyên bố sẽ đánh chiếm lại tỉnh Phước Long, đã được giải phóng để trấn an lại tinh thần ngụy quân và ngụy quyền. Rồi bằng cách hăm doạ “Mỹ rút Nhật sẽ nhảy vào” hòng làm cho hoang mang dư luận, phá vỡ niềm tin về hoà bình của quần chúng. Trước tình hình trên ta chủ động giải thích, vạch rõ âm mưu của địch và làm cho quần chúng thấy thắng lợi của Cách mạng đến gần. Ngày 28-01-1975, trên 100 quần chúng (có gia đình binh sĩ) , có cơ sở ta lãnh đạo đã đấu tranh với tên quận phó chỉ huy cuộc càn vào Hoà Phú, làm tên này bối rối hết hung hăng đòi “xỏ xâu mấy thằng du kích đem về”. Quần chúng còn tác động bọn lính nói “có một lõm nhỏ như vậy mà 300 – 400 lính, có cối pháo không vô được, còn trên vùng giải phóng làm sao vô được”.
Từ ngày 1-2-1975 đến ngày 5-2-1975, công tác binh vận được đẩy mạnh, đã tuyên truyền rộng 269 người và 45 gia đình, trong đó có 28 gia đình binh sĩ, tuyên truyền sâu 276 người. Có 4 lần đột vào ấp chiến lược ở các xã Trung Lập Hạ, Thái Mỹ, Tân Thạnh Đông một lần võ trang tuyên truyền tình hình thời sự ở xã Hoà Phú. Có trên 200 quần chúng ở xã Tân Thạnh Tây chống chính quyền ngụy – không chịu xin nộp đơn đập lúa, không đóng tiền cây mùa xuân chiến sĩ do địch vận động. Một số người không chịu đi họp phòng vệ dân sự với lý do bận mùa màng.
Ngày 10-2-1975, du kích Nhuận Đức đánh vào ấp chiến lược Trung Hoà. Sau đó lại phục kích đánh tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn 50 ngụy, diệt 2 tên, gây bị thương 3 tên thu 2 súng và một máy truyền tin. Cũng năm này, nhân dân Củ Chi bãi thị, bãi khóa để ủng hộ cuộc đấu tranh của báo giới tại Sài gòn. Lực lượng vũ trang địa phương đã đột nhập vào thị trấn Củ Chi, ấp chiến lược Suối Cụt, xã Phước Thạnh, bắt sống 9 tên ác ôn, thu một số súng và quân trang.
Trong thời gian này xã Trung Lập Thượng đã họp cấp ủy xã mở rộng và đại hội phụ nữ xã, để uốn nắn một số nhận thức về 3 mũi tiến công, xây dựng nội tuyến, truy lùng diệt ác, qua đó đã có nhiều chuyển biến tốt.
Ngày 25-2-1975 du kích xã Trung Lập Thượng kết hợp với an ninh huyện, phục kích một tiểu đội lính tua Trung Hưng ra ngoài xóm, diệt 3 tên và làm bị thương 3 tên khác. Tiếp theo đó ta pháo kích luôn vào đồn Trung Hưng, 5 trái cối, 3 quả đạn B40 làm chết 1 tên. Liền đêm đó, binh vận ta cắm tại cửa bót một lá thơ gởi cho đồn trưởng và 39 tờ truyền đơn, sáng hôm sau lực lượng quần chúng đến đấu tranh chính trị với chúng.
Ngày 26-2-1975 ở Tân Thạnh Tây địch tổ chức hội họp để bắt canh gát phòng vệ dân sự, khoảng 20 nông dân đấu tranh chống gác với nhiều lý lẽ “già không gác được”, “sợ pháo kích”, “nhà nghèo lo làm ăn”, “đau bệnh”…
Tình hình chung lúc này bọn tề xã, ngụy quân ở Củ Chi hoang mang dao động rất nhiều. Trước lực lượng đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng, bọn tề ấp chỉ làm chiếu lệ khi có lệnh của cấp trên và thường đi phân bua với đồng bào. Nhiều đồn địch bọn lính không dám treo cờ vì sợ du kích ta lấy cờ làm tọa độ bắn pháo vào đồn, không dám đi trên bờ đê vì sợ bắn tỉa. Trong 3 ngày 27,28-2 và 1-3 du kích Phú Hoà Đông liên tiếp bắn tỉa vào đồnCây me tuy không chết tên nào, nhưnh bọn địch ở đây hoang mang đến cao độ, ta gứi thơ cho tên trưởng đồn, nó nhận được và báo cáo với thằng đại đội trưởng chỉ huy, chỉ một tuần lễ sau sợ quá, bọn chúng xin đổi đi.
Tính riêng trong tháng 2-1975 có 122 lính rã ngũ và hàng trăm binh sĩ trốn về nhà ăn tết.
Ghi nhận trong 3 tháng của đợt I mùa khô từ tháng 11 năm 1974 đến tháng 2-1975, Huyện ủy đã tổ chức học tập Nghị quyết, tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ 17 cuộc, có 252 người dự, học tập nâng chất bồi dưỡng gần 100 cơ sở nội tuyến, mở 12 lớp học về chính sách và tình hình cho 40 binh sĩ. Kết quả có 20 binh sĩ đăng ký kêu gọi bạn bè, còn trong hàng ngũ địch về với cách mạng, tham gia công tác tại địa phương. Vận động viết được 62.488 truyền đơn, khẩu hiệu, chính sách và lệnh giải tán phòng vệ dân sự, gọi loa 27 lần, làm rã ngũ 965 binh sĩ. Trong đó có 230 quân chủ lực, 353 bảo an, 185 dân vệ (xoá phiên hiệu 2 trung đội), 174 phòng vệ xung kích, 11 tề, thám báo, 1 cảnh sát, 3 quân cụ, 7 không phân biệt. Có 9 xã ở Củ Chi , tổ chức phòng vệ dân sự tan rã hoàn toàn, trong đó có 1.532 phòng vệ canh gác, 181 phòng vệ xung kích. Trong thời gian này tại Củ Chi, binh sĩ ngụy phản chiến chống lệnh hành quân của cấp trên rất lớn, có 10 lần cấp trung đội, 3 lần cấp đại đội, 6 lần cấp tiển đoàn, lẻ tẻ 28 binh sĩ.
Cơ sở nội tuyến cũng hoạt động mạnh mẽ diệt 10 tên ác ôn, bứt rút 6 tua như : Bàu Tràm, Phước An, Phước Hưng, Thái Mỹ, riêng tua Trung Hoà ta chỉ cấn phóng thanh là bọn lính đã bỏ chạy. Đấu tranh chính trị và binh vận cũng được phát tốt gần 100 cuộc đấu tranh lớn, cộng lẻ tẻ có 7250 lượt người tham gia chống gác phòng vệ dân sự, đòi gặp mặt chồng con em, không cho hành quân tiếp viện. Đặc biệt có một số thuộc gia đình binh sĩ, phòng vệ dân sự, có dân vệ và tề tham gia đòi xác chồng và chống làm xâu, 15 cơ sở nội tuyến cũng được xây dựng thêm . Chỉ trong 8 ngày từ 26-2 đến 5-3-1975 lực lượng binh vận đã viết 6 lá thư tay gửi 2 gia đình binh sĩ, 3 tên phòng vệ dân sự và 1 dân vệ. Giáo dục nhiều gia đình binh sĩ và phòng vệ dân sự, làm rã ngũ 27 lính bảo an. Cũng trong thời gian này, địch chở số tân binh sư đoàn 25 đi tiếp viện Tây Ninh, đến Củ Chi, bọn binh sĩ đồng loạt nhảy xuống xe, chạy trốn dọc đường, số còn lại chúng bắn trấn áp nhưng số này vẫn tiếp tục nhảy đến hàng chục tên và chạy thoát. Trong những ngày Tết ất Mão, ở An Phú đồng bào về được 28 gia đình có 156 người.
Hướng chỉ đạo tới của Huyện ủy tiếp tục đấu tranh 3 mũi, phát triển phong trào du kích chiến tranh nhất là xây dựng du kích ấp cả mật và công khai. Riêng về mặt binh vận, trong tình hình tinh thần ngụy đang rệu rã , vấn đề rã ngũ, phản chiến chống hành quân đi tiếp viện đang phát triển mạnh. Huyện ủy chủ trương các xã tiếp tục phân loại thành phần lính ngụy, có kế hoạch tấn công tiếp và đẩy mạnh việc giáo dục gia đình binh sĩ địch để kêu gọi con em họ : nhằm phục vụ đắc lực cho tình hình tới đây, chỉ đạo nhạy bén để mở rộng các hình thức tan rã của địch bằng áp lực hoặc phong trào quần chúng.
Ngày 4-3-1975, ở Trung Hoà bọn lính ăn nhậu đánh lộn với nhau, dùng lựu đạn làm chết một bà lão ở Sa Nhỏ (Trung Lập Thượng) xuống Trung Hoà thăm bà con. Lập tức quần chúng ở đây, trên 50 người khiêng xác bà lão đến bọn tề ấp, xã đấu tranh, buộc chúng làm chứng, rồi khiêng thẳng xuống Củ Chi tố cáo địch đòi bồi thường nhân mạng, cuôc đấu tranh ngày càng đông , có cả 100 người, buộc tên quận trưởng phải bồi thường 150.000 đồng (tiền ngụy cũ) và bỏ tù tên lính ném lựu đạn.
Ở xã Thái Mỹ, địch chủ trương vét kênh từ cầu An Hạ lên tới Trảng Bàng, ngày 6-3-1975, bọn cai thầu đã đem quân dân Việt kiều tới ấp chiến lược Bình Hạ gởi mỗi gia đình 6-7 người để đi vét kênh, đồng thời quan hệ với tên trưởng ấp, mướn thanh niên ở đây đi vét. Chúng bắt đầu làm từ Cầu Lớn ( Thái Mỹ) đến Gò Ông Dưỡng xã An Tịnh (gần chỗ bám trụ của ta), xã ủy Thái Mỹ lập tức tổ chức đột nhập vào ấp phát động quần chúng: phát loa ngăn cấm, viết bảng tử địa, gài trái, mìn ở lòng kênh để ngăn chặn không cho địch làm, đồng thời bắt tên thầu khoán giải về huyện.
Ngày 7-3-1975, ở Trung Hoà, địch tổ chức đón đường, ruồng xét bắt thanh niên đi lính, lập tức trên 50 quần chúng từ các dãy nhà tỏa ra bao vây bọn lính, đấu tranh giành giựt con em quyết liệt với địch. Buộc tề ấp, xã cũng đi với họ xuống tận dinh quận đấu tranh, đòi thả con em họ ra, vì không có pháp luật nào bắt thanh niên chưa tới tuổi đi lính. Cuộc đấu tranh thắng lợi, buộc địch phải thả 30 thanh niên ở Trung Hoà.
Đêm 8-3-1975, bộ đội địa phương huyện tấn công bót Cây Bài, ta đã mở được cửa, chiếm lô cốt đầu cầu, diệt 2 tên phòng vệ xung kích, làm bị thương 5 tên. Sau khi rút ra, đến 4 giờ sáng, có 10 gia đình phòng vệ dân sự, được sự lãnh đạo của cơ sở ta, nổi đèn kéo đến bót đòi tìm xác chồng, con khóc la, tố cáo tên trưởng ấp, địch vịn cớ trời tối không cho vào, 10 gia đình nói trên đạp hàng rào càn vô, làm cho bọn còn lại hoang mang, hứa chờ sáng giải quyết. Khí thế đấu tranh của quần chúng lúc bấy giờ hết sức quyết liệt, họ chửi mắng bọn ác ôn liên tục. Họ đòi trả chồng, com; mạng phải đền mạng, chư không được đền tiền. Suốt ngày hôm sau, quần chúng ấp Cây Bài bàn tan công khai, tác động không sợ địch, ngay hôm sau đó, số phòng vệ xung kích bỏ súng không đi gác, đặc biệt có 2 phòng vệ trốn ra vùng ta.
Cùng đêm 8-3-1975, an ninh vũ trang huyện kết hợp cùng lực lượng của khu, xã, du kích Tân An Hội và C7, C25 tổ chức tập kích vào trung tâm chi khu Củ Chi và chi cảnh sát, làm sập 2 lô cốt, diệt 3 tên trong đó có 1 tên ác ôn phụ trách 4 xã theo lộ 22. Cùng lúc pháo kích vào cụm pháo ở Lào Táo, phân chi khu Thái Mỹ, Bàu Tre, Trung Hoà, Đồng Dù. Nhịp nhàng với tấn công san bằng đồn bót, diện bao vây bắn tỉa của du kích trong thời gian này cũng đang siết chặt một số bót: Trung Hưng xã Trung Lập Thượng, Cây Me xã Phú Hoà Đông, Bàu Giang xã Trung An, làm cho địch không dám treo cờ, sợ pháo hích, không đi trên lộ sợ bắn tỉa, không đi lấy nước uống được.
Song song với những hoạt động tấn công địch, khâu diệt ác phá kềm trong thời gian này cũng có kết quả, an ninh võ trang huyện táo bạo hoá trang đột nhập vào Trung Hoà giữa ban ngày diệt 1 cảnh sát, 1 bìnhl định, tập kích vào thị trấn Củ Chi giết chết 3 tình báo ban hai, công đồn làm bị thương nặng tề ấp Cây Bài và trang bị súng hãm thanh cho du kích mật diệt ác ở Tân Thạnh Tây. Chỉ riêng xã Trung Lập Thượng, ta đã vào ấp phát động được 11 cuộc, có 161 quần chúng, tuyên truyền lẻ tẻ 56 người , mở một cuộc hôi nghi gia đình binh sĩ , bàn cách đưa con em trở về hoặc tham gia hành động cách mạng. Kết quả có 23 gia đình binh sĩ học tập, sau đó phát động 3 gia đình hứa sẽ vận động chồng con lập công về với cách mạng.
Sáng ngày 9-3-1975, bọn địch ở Tân Quy đưa đại đội 314 đặc nhiệm đến lấy xác tại Cây Bài, bị ta chặn đánh diệt 1 trung đội, thế là cả đại đội chỉ còn 12 tên sót lại, chạy về ấp chiến lược Phước Vĩnh An. Trong lúc lúc địch hốt quân đi tiếp viện, số gia đình binh sĩ ở Bình Dương, Tân Quy đều lo sợ, nghe súng nổ, họ kéo đến Tân Quy trên 30 người đấu tranh với tên quận trưởng, buộc phải dẫn họ vô kiếm xác. Quần chúng buộc nó không được bắm pháo nữa, chúng hứa chấp nhận, gia đình binh sĩ tổ chức người, xe đạp, xe honda đi và trận địa kiếm xác, được cơ sở ta hướng dẫn đi vào, cứ thỉnh thoảng chở ra từng xác người để tác động địch, làm cho chúng hết sức hoang mang, quần chúng phấn khởi kéo đến xem hàng trăm người. Có 1 bà lão tìm được xác con, mượn xe gắn máy kéo ra dọc đường, bà gào thét tố cáo, tố cáo quân tàn ác “bây bắt con tao đi vào đó chết, rổi bỏ thây con tao, nếu không co` bà con giúp đỡ, làm sao tao thấy mặt con tao ? Vởy mà bây nói thắng ! ở đây sát quận mà bây còn thua”. Điều này làm cho nhiều binh sĩ xúc động nói: “ở đây còn thua mà nó kêu mình đi giải toả Bình Long”. Khi về nhà, bà mẹ binh sĩ chặt 3 khúc tầm vông để trước cửa, bà nói : “thằng quận nào tới đây tao đôi mạng”. Khí thế quần chúng ở Tân Quy suốt 2 ngày bỏ công ăn việc làm, tụm năm tụm bảy không sợ địch, có mặt công an, tề, lính họ cũng nói “Việt Cộng” thắng, quốc gia thua bỏ xác không dám lấy thây. Có ông già nói với tên lính “Qua như em là qua trốn mất”, tên lính hỏi tại sao, ông già nói “chớ em không thấy sao, khi sống thì nó bắt em đi ruồng bố, khi thua trận nó kêu pháo hủy diệt không kể gì tính mạng binh lính, chết thì nó bỏ thây”. Tên lính cúi đầu làm thinh không nói, quần chúng tấm tắc hoan nghênh, bí mật vận động đường sữa gởi ra cho bộ đội, không khí vô cùng phấn khởi. Súng đang nổ, quần chúng tràn ra coi, reo hò cảm kích, nhiều em bé vỗ tay khi thấy ta rượt địch (có lúc khoảng 200 quần chúng).
Ngày 11-3-1975, được cơ sở ta giáo dục, 13 gia đình binh sĩ ở Suối Cụt xã Phước Thạnh có con em bị địch bắt đi tiếp viện ở Tây Ninh, đến bao vây máy bay tên đại tá vừa đáp xuống ở Suối Cụt, quần chúng đấu tranh, đòi địch phải đem con em họ về, tên đại tá khoát tay không cho vào, quần chúng xông tới, buộc tên này phải lên Tây Ninh để tìm chồng, con em họ. Hoảng sợ trước khí thế đấu tranh của quần chúng, tên đại tá lên máy bay chuồn thẳng. Trong thời gian này cũng có 300 lượt quần chúng đấu tranh tại chỗ với bọn tề xã, yêu cầu chúng không được bắn cối để bà con ra đồng làm ruộng.
Chiến thắng dồn dã khắp nơi lan nhanh về Củ Chi, quần chúng ở đây rất xôn xao, bàn bạc thời sự, nhất là quần chúng ở các ấp chiến lược phía Nam, họ nói đánh chiếm Buôn Mê Thuộc, Dỗu Tiếng…Đánh ban ngày ở lộ 8, đồng bào rỉ tay nhau “Quốc gia bất lực hơn Mậu Thân nữa”, chỗ này địch thất bại, chỗ kia địch mất, thằng quận trưởng hoang mang giao động, khí thế cách mạng rất sôi nổi, tác động trước mặt địch. Khắp nơi quần chúng phấn khởi bàn bạc, nhận định: ta sẽ đánh lớn, họ rủ nhau chôn cất lúa gạo, tài sản, kêu bọ tề ấp và phòng vệ dân sự đến chôn lúa gạo phụ, qua đó tác động bọn này hay là ta sắp tấn công.
Nhiều đồn bót lẻ tẻ trong huyện tiếp tục hoang mang, ban đêm rút ra khỏi đồn, trốn ngủ bên ngoài, ở một số nơi khác. địch buộc quần chúng phải chặt tầm vông, tre để rào đồn, ấp như ở tua Hậu Thạnh. Quần chúng đấu trnh không chịu làm với lý do: sợ ta gài trái. địch phải tự làm lấy.
Trong thời gian này, địch đã thực hiện âm mưu tìm bắt những quần chúng tình nghi là có quan hệ với cách mạng, để đánh phá cơ sở của ta, đồng thời ngăn chặn phong trào tấn công, nổi dậy. Cụ thể, đã bắt 19 người ở các ấp chiến lược xã Phước Hiệp, Phước Thạnh. ở Trung Hoà, địch trắng trợn bắt thanh niên đi lính và ở xã Phước Vĩnh An, địch có âm mưu bắt phòng vệ canh gác lại, đưa phòng vệ lên Củ Chi học tình báo đại chúng. Nhưng với nhiều lý lẽ khác nhau, quần chúng đã đấu tranh với địch không chịu đi học, âm mưu này của địch bị thất bại. Đặc biệt về phía quân sự, đại bộ phận bọn chủ lực rút đi không còn ở chiến trường Củ Chi, chỉ còn lại các tiểu đoàn bảo an như 320, 321, 314, 319, 305 và bọn phòng vệ dân sự. Thời cơ này rất thuận lợi để du kích và bộ đội địa phương tấn công diệt địch.
Ngày 21-3-1975, thành đội Sài gòn- Gia Định chỉ huy tiểu đoàng Quyết Thắng cùng với bộ đội địa phương và du kích lập trận địa phục kích đoàn xe tải của ngụy tiếp viện cho chiến trường Tây Ninh. Trận địa kéo dài từ Bàu Tre đến Cây Trôm trên quốc lộ 22. Kết quả quân giải phóng diệt 51 xe tải, 2 xe tăng, bắn bị thương 1 trực thăng, diệt 4 đại đội ngụy, đánh thiệt hại 3 đại đội bảo an khác, bẻ gãy kế hoạch tiếp viện của địch.
Cuối tháng 3 đầu tháng 4 năm 1975, ở Củ Chi , Huyện ủy đã triển khai xong trong nội bộ về tinh thần cơ bản ccủa chỉ thị 304 và Đảng văn 76/TW. Vừa triển khai vừa đẩy mạnh các mặt tấn công địch theo Nghị quyết 15 của Huyện.
Bước vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử tháng 4 năm 1975, để giải phóng Sài gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, Huyện Củ Chi đã dốc toàn bộ lực lượng cho chiến dịch “khí thế như Mậu Thân, tấn công như năm 1972, nổi dậy như Đồng Khởi”. Đó là khẩu hiệu hành động của Huyện ủy Củ Chi lúc bấy giờ. Điểm nổi bật nhất của Huyện lúc này là khi được lệnh của Trung ương và khu ủy , theo chủ trương của trên nhiệm vụ của Củ Chi, không chỉ riêng giải phóng Huyện nhà, mà phải cùng với cả nước, tham gia giải phóng Thành phố. Do yêu cầu bức thiết đó, phân khu ủy trực tiếp là đồng chí Nguyễn Bá Niên, chỉ đạo cho Củ Chi thành lập một trung đoàn. Trung đoàn có 3 tiểu đoàn: tiểu đoàn 1 bao gồm 3 đại đội hiện có của Củ Chi là C 25, C7, C3, tiểu đoàn 2 chủ yếu là lực lượng được tuyển t72 các cơ quan, ban ngành củ Huyện, lấy quân y Củ Chi làm quân y trung đoàn. Thế là trong vòng chỉ 15 ngày đã thành lập 1 trung đoàn lấy tên “Đất thép” được trang bị đầy đủ. Đ/c Nguyễn Văn Thắng, Phó Bí thư Huyện ủy, được cử làm Bí thư Đảng ủy, kiêm Chính ủy trung đoàn. Đồng thời lúc này đồng chí Nguyễn Văn Luân, Bí thư Huyện ủy cũng được rút về trên, phụ trách cánh quần chúng nổi dậy ở phía Bắc Gia Định. Trung đoàn có hơn 800 cán bộ chiến sĩ, trong đó có 400 Đảng viên, có đầy đủ các ban tham mưu, chính trị, hậu cần, quân y… gấp rút cho việc xuống đường giải phóng Sài gòn. Trung đoàn tập kết tại địa bàn xã An Phú, Phú Hoà Đông, Nhuận Đức. Không khí thật sôi nổi, các chiến sĩ học tập, trao đổi lẫn nhau về kỹ thuật tác chiến, thể hiện tinh thần phấn khởi, tự giác học tập trong toàn đơn vị. Trung đoàn có nhiệm vụ chiếm lĩnh toà hành chánh tỉnh Gia Định, hỗ trợ cho Gò Vấp, Bình Hoà, Thạnh Mỹ Tây cướp chính quyền.
Song song, Huyện còn cử một số đại đội tăng cường cho trung đoàn Quyết Thắng, rút thanh niên và cán bộ các xã lên thành lập 3 đại đội lấy tên là C3, C7 và C25, là đại đội được tổ chức thành một tiểu đoàn có nhiệm vụ giải phóng và tiếp quản Củ Chi.
Mở màn cho chiến dịch, ta bao vây các đồn Bàu Giang, Trung Hưng, Cây Me. Đột nhập ấp chiến lược Bình Hạ, Mỹ Khánh, Bình Thượng, Tân Thạnh Đông, Phú Hoà Đông, Phước Thạnh, Trung An, phát động 528 quần chúng nổi dậy phá hủy 40 tấm hình Thiệu và 10 bản khẩu hiệu phản động.
Nhiều cuộc đấu tranh chính trị cũng liên tiếp nổ ra. Tại Phước Hiệp, trên 200 gia đình đấu tranh tại chỗ, chống đàn áp khủng bố, chống vào ấp chiến lược, đòi được ở vườn đất cũ làm ăn. Đấu tranh hù nhác tác động địch, tạo thế, tạo lý đấu tranh. Kết quả quần chúng vẫn bám trụ vườn đất như cũ. Các xã Phước Hiệp. Phước Thạnh, Tân Thạnh Đông, Trung An, Tân Thạnh Tây, có hàng ngàn lượt quần chúng đấu tranh, chống chặt cây rào bót, chống mua thùng phi, làm xâu, đào hào, bằng nhiều hình thức lý lẽ như: bận làm ăn, không tiền mua thức ăn có đâu mua thùng phi. Có nhiều quần chúng, địch thu căn cước bắt làm xâu, thì bỏ giấy không đi làm. Cuối cùng địch phải đem trả lại. ở Tân Thạnh Đông, sau khi phát động quần chúng và rãi truyền đơn kêu gọi xa lánh đồn bót, phá ấp chiến lược trở về, đã có 15 gia đình cất nhà trên nền cũ và kéo cả tài sản ra ở luôn.
Tin chiến thắng dồn dập của ta ở các chiến trường và sự thất bại tháo lui của địch ở nhiều nơi, làm bọn địch ở Củ Chi hoang mang dao động đến cực độ, tinh thần hoàn toàn bị khủng hoảng, đến nỗi ngày 1-4-1975 bọn địch ở Trung Hoà, thấy xe bò của quần chúng kéo tài sản về Gò Nổi bụi đường bay lên, chúng tưởng là xe của ta chạy nên gọi máy bay L19 lên quần đảo và bắm pháo, làm hư 1 xe bò, 1 con bò chết và làm bị thương 1 em nhỏ. Tuy bọn trên cố ra sức thúc ép nhưng cũng không sao lấp được sự khủng hoảng tinh thần trong nội bộ lính ngụy ở địa phương.
Ngày 5-4-1975, một xe “Cam nhông” (xe tải) chở mía từ Tây Ninh đến Trảng Dài (Phước Hiệp) bị nổ bánh, làm 3,4 tên cảnh sát hốt hoảng quay xe chạy, ngỡ là bị ta tấn công. ở Phú Hoà Đông, có 2 ông lão dựa vào tin tức mà ta phổ biến, hoặc nghe được đã tuyên truyền, mỗi ngày từ 20 tên lính trở lên trong đó có sĩ quan ngụy, nói chung tâm lý của chúng ở đây cũng cầu an, mong sao được yên ổn trở về với gia đình, sơ chạm súng với ta.
Cuộc phát động khởi nghĩa, các xã Phú Mỹ Hưng, An Phú, An Nhơn Tây, Trung Lập Thượng , đã tập hợp thanh niên hình thành các đại đội trực chiến của xã, tổ chức những buổi ra quân, động viên cho phía trước, đã tạo nên một phong trào, một khí thế khởi nghĩa trong xóm ấp. Đảng viên, đoàn viên có một số, trước đây có tư tưởng chao đảo, nay cũng xốc vô và hứa hẹn sẵn sàng chấp nhận mọi sự phân công , để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Vụ thả bom ngày 8-1-1975 ở dinh Thiệu, bọn ngụy quyền ở Củ Chi ra lệnh giới nghiêm. Lô 8 từ Bình Dương qua Củ Chi chúng tăng cường cho lính gác dài theo lộ, cứ 10 met có 2 tên. Tinh thần tư tưởng địch ngao ngán, chuẩn bị cho thế thua. Bọn lính 323 (số này bại trận ở Phước Long đưa về) ở đổn Cây Me, mỗi tên đều mang một bộ dân phục, đẻ chuẩn bi ta tấn công là thay vào để chạy. Tên quận trưởng ở Củ Chi tuy bị lệnh bọn trên phải kiên quyết phòng thủ nhưng tâm tư nó thấy “không chắc ăn”, đã phát biểu bi quan : “làm thì làm chớ quận này nội cơ sở Việt cộng nó lấy cái một”. Tình hình quần chúng toàn huyện đang thành phong trào di tản của cải ra vùng giải phóng. Đồng bào tích cực đưa con em ra gởi cán bộ ta, đưa vô vùng giải phóng, gia nhập các tổ chức vũ trang.
Địch tiếp tục bắt quần chúng đắp mô trên các con lộ, đào các đường hào, để làm các chướng ngại chống tăng của ta, chặt tre gai, chà rào ấp chiến lược. Có một số nơi rào gần xong như Phước Vĩnh An, Thái Mỹ. Phòng vệ dân sự địch tiếp tục tan rã, một số nơi bị phá rã không tái lập được, địch tiếp tục duy trì lại tổ chức này nhưng quần chúng chống phá. Có một số nơi chỉ còn hình thức đi điểm danh mỗi buổi chiều có mặt rồi về không gác. Ta phát động được 234 quần chúng, trong đó có cả gia đình binh sĩ ngụy đều hứa hẹn khi có điều kiện là nổi dậy phá cá hình thức kềm kẹp của địch, bung liền về vùng giải phóng.
Quyết tâm của bộ chính trị là giải phóng miền Nam trước tháng 5- 1975. Đêm 10 vá 11- 4- 1975, Huyện ủy họp mở rộng, các ban ngành, các xã phổ biến lệnh của Bộ chính trị, bàn kế hoạch phân công bố trí cán bộ, đi vào thực hiện nhiệm vụ trên giao và ráo riết chuẩn bị chờ lệnh hợp đồng. Sau khi phổ biến chủ trương khởi nghĩa của trên, cán bộ và quần chúng ở những nơi được phổ biến đều hăng hái chuẩn bị. Nói chung ở các xã khí thế quần chúng rất phấn khởi và tán thành chủ trương của Huyện ủy.
Từ ngày 6-4 đến 13-4-1975, địch tăng cường đốt hoặc đánh phá địa hình dọc theo các lộ 22, lộ 8, lộ 7. Hằng ngày cho máy bay quần đảo trong vùng giải phóng, cho pháp bắn vào nơi chúng nghi là có lực lượng của ta.
Ngày 19-4-4975, Huyện ủy tổ chức hội nghị mở rộng các xã ủy, xã đội nhằm: kiểm điểm việc chuẩn bị của từng xã, bổ sung tinh thần chỉ đạo của trên và một số việc cần chỉ đạo tiếp theo. Các xã sẽ tổ chức họp kiểm tra lại phần chuẩn bị, đồng thlời xây dựng tư tưởng trong nội bộ Đảng viên, đoàn viên quần chúng. Tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi cuối cùng, giải quyết mọi tư tưởng nhận thức cũ, nghi ngờ, giải quyết tác phong chập chờn do dự, còn thấy khó khăn, để động viên sự nỗ lực cao nhất cho thắng lợi cuối cùng. Về tổ chức, mỗi xã phải nhanh chóng hình thành các tiểu ban: tiếp quản, tuyên truyền, đời sống, truy lùng, xây dựng khung chính quyền Cách mạng, xây dựng lực lượng. Vận động quần chúng tráng kiện, thanh niên nam nữ sẵn sàng đứng lên cầm súng, lấy súng địch trang bị tại chỗ và có thể đề nghị lãnh súng. Huấn luyện ngay cho cán bộ, chiến sĩ và quần chúng nắm lấy nắm vững những nội dung cơ bản của 10 điều kỷ luật, 10 chính sách đối với vùng mới giải phóng, chính sách binh vận 7 điểm, huấn luyện quần chúng tại chổ biết bắn súng và ném lựu đạn. Kiểm tra lại và chuẩn bị thêm như: cờ của ta và của quần chúng, loa phóng thanh mỗi ấp, xã. Thông báo chuẩn bị trống, mõ. Nắm danh sách ác ôn nguy hiểm. Điều nghiên kho tàng , hầm ngầm, giao nhiệm vụ thật cụ thể cho từng bộ phận, từng ấp, ai làm gì và làm gì tiếp theo ?
Địch tăng viện phòng thủ, tuyến lộ 22 ở Đồng Chùa, Phước An có 20 xe tăng và xe ủi, khoảng đường Bàu Tre – Tân An Hội có 12 xe, sau đó chuyển xuống Tân Thông Hội. Chúng thay lại đây một tiểu đoàn bảo an án ngữ, chặn đường, quân chủ lực nằm trên lộ 22 khoảng 1 trung đoàn. Cụm Đồng Chùa bọn chủ lực đến giữ, bọn bảo an về phòng tủ quanh chi khu Tân Quy. Để phòng thủ, chúng bung ra cho xe ủi, phá địa hình hai bên lộ 22 như vùng trắng Mũi Côn, Cây Trôm xã Phước Hiệp, Phước Lộc, xã Phước Thạnh. Ngày 20-4-1975, đoàn xe quân sự địch chở khoảng 1 tiểu đoàn chủ lực đến lộ 2 đổ xuống và 10 xe tăng càn qua Nhuận Đức, án ngữ ven Đồng Dù. ở căn cứ Đồng Dù, địch ủi âm xe dưới mặt đất và đào công sự để đối phó, tấn công ta. Tàu chiến ở Bình Dương hoạt động lên đến Rạch Miễu, Trung An, dùng M79 bắn phá hai bên bờ. ở Phú Hoà Đông, bọn công an, cảnh sát tiếp tục khống chế, đàn áp phong trào quần chúng, sục sao, xét phạt nhà nào dự trữ lương thực. Tâm trạng binh sĩ lo tính khi bị đánh làm gì để khỏi chết, thể hiện tư tưởng đầu hàng phản chiến, bọn tề xã đêm đến lo lẫn trốn chỗ khác không dám ở nhà.
Quần chúng phấn khởi bàn luận tình hình, ráo riết chuẩn bị chôn giấu tài sản và chuyển ra vùng giải phóng, phát động được 545 quần chúng, giáo dục hàng chục gia đình binh sĩ, rải dán cả ngàn tờ truyền đơn, khẩu hiệu và chánh sách 7 điểm.
Lực lượng vũ trang ta xuất kích nhiều nơi như ở Phú Hoà Đông, Xóm Mới (Trung Lập Hạ), Bàu Tép (Phước Vĩnh An), Tân Thạnh Đông, diệt và làm bị thương nhiều tên, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng, vận động rã ngũ 25 tên.
Ngày 21-4-1975, quân giải phóng đánh chiếm Xuân Lộc, coi như địa đầu tuyến phòng thủ Sài Gòn bị phá vỡ( tên Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống ngụy quyền đã phải từ chức và chuồn ra nước ngoài). Lúc này không khí chuẩn bị ở vùng giải phóng Củ Chi đã sôi nổi khác thường. Bộ phận tiền trạm của quân chủ lực đã về đây, công binh bắc cầu nổi tên sông Sài Gòn và làm đường cho bộ đội qua. Về đêm, xe cơ giới chạy rầm rập, tăng , pháo kéo dài xuống tận Nhuận Đức sát với Đồng Dù, pháo để rải rác khắp trong rừng, đạn chuyển nhanh cho các trạm. Đơn vị thông tin hối hả mắc các dây điện thoại . Dân công tải hàng, tải thương có đêm có trên trăm người, tấp nập ngược xuôi. Quần chúng cho mượn hàng chục ghe cả người, chèo cả ngày đêm, đưa bộ đội thương binh qua sông, làm xong một trường học mới, đào 16 công sự để tránh phi pháo. Những người cốt cáng, đảng viên, đoàn viên thuộc hệ thống quân sự và dân chính, được đưa ra ngoài để nghe phổ biến tình hình và nhận nhiệm vụ mới, chuẩn bị cho chiến dịch. Lúc này Huyện ủy Củ Chi cũng khẩn trương tổ chức hội nghị , triển khai chỉ thị 03 về việc xây dựng chính quyền cách mạng và bổ sung về mặt tiếp tục chuẩn bị đi vào hợp đồng tấn công. Đã nhật trí thông qua danh sách ủy ban Nhân dân Cách mạng Huyện và 5 xã. Hàng nghìn lá cờ Mặt trận cỡ to, cỡ nhỏ được cấp tốc may sẵn để sư dụng khi tiếp quản các thị trấn và thành phố. Còn tình hình ở ấp chiến lược và vùng ven, địch rất hoang mang, tổ chức rệu rã, nhiều binh sĩ đào ngũ. Nghe tiếng máy cày, tưởng là xe tăng quân giải phóng đến, có đứa vội bỏ chạy. Nắm thời cơ, bộ đội địa phương và du kích bứt rút, bức hàng nhiều đồn bót. Nhân dân ấp chiến lược ở vùng địch kềm kẹp, vô cùng phấn khởi và náo nức đón chờ bộ đội về giải phóng, nhiều người được dịp bung về ngay về quê cũ, có gia đình cán bộ cán bộ ở ấp chiến lược gởi đồ đạc, tài sản ra vùng giải phóng, để tránh thiệt hại khi chiến sự xảy đến. Ai ai cũng quan tâm theo dõi thời sự, nhất là tin chiến sự hàng ngày, những người không đọc báo nghe đài bao giờ thì nay cũng tìm báo để đọc và chú ý nghe đài. Không khí nói chung, sôi nổi hơn cả hồi tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.
Ngày 26- 4- 1975, du kích Thái Mỹ diệt một bót mở đầu cho việc giải phóng xã ở Củ Chi, tiếp tục đến ngày 28-4-1975 đánh chiếm bót Bình Thượng.
Theo kế hoạch đã định, sau 4 ngày chuẩn bị, 6 giờ chiều ngày 28-4-1975, trung đoàn “Đất thép” Củ Chi cùng với một trung đoàn chủ lực của binh đoàn 3 phía Tây Bắc, đã vu hồi phía trước qua lộ 8 chiếm hai đầu cầu: Cầu Bông (quốc lộ 22), Cầu Xáng (tỉnh lộ 15) và xã Tân Thạnh Đông.
Đúng 5 giờ 30 sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, cuộc tấn công căn cứ Đồng Dù bắt đầu. Trong 2 giờ liền, pháo của quân giải phóng bắn cấp tập trúng vào trận địa pháo của địch, làm cho hoả lực của địch yếu hẳn. kho xăng cũng trúng đạn, bốc cháy dự dội, sở chỉ huy của trung đoàn 50 cũng bị thiệt hại. Cùng lúc, quân giải phóng dùng bộc phá quét sạch lớp rào gai, phá thủng tường sắt, mở 3 cửa đột phá hướng Bắc- Tây Bắc và hướng Nam căn cứ. Sau đó bộ binh cùng xe tăng xung phong vào lúc 7 giờ 30. Quân địch vội đem xe tăng ra bịt các cửa đột phá. Cuộc chiến đấu của ta và địch rất ác lịêt diễn ra ở đây. Trướcsức tấn công áp đảo của quân giải phóng, quân ngụy vứt súng , cởi cả quần áo chạy thục mạng. Đúng 10 giờ 30 phút, quân giải phóng chiếm sở chỉ huy sư đoàn 25 ngụy, làm chủ hoàn toàn căn cứ Đồng Dù, bắt sống tại chỗ tên đại tá sư đoàn phó. Còn tên sư đoàn trưởng thì cùng một số tên lính , tháo chạy ra ngoài căn cứ về phía Tân Thạnh Tây, song cũng không thoát khỏi tay nhân dân. Lực lượng vũ trang và quần chúng tại chỗ , đã bắt giữ ngay Lý Tòng Bá, chuẩn tướng sư đoàn trưởng 25 ngụy. Trước khí thế tấn công của ta, bọn ngụy tháo chạy về hướng Tân Thạnh Đông, Tân quy và hoà Phú, số chống lại bị lực lượng du kích tại chỗ tiêu diệt hàng chục tên, số đông khác đầu hàng, được ta giáo dục tại chỗ hàng ngàn tên.
Ngay khi binh đoàn 3 đang đáng địch trong căn cứ Đồng Dù,thì trung đoàn “Đất thép” đã đột kích, ém quân ở Tân Thạnh Đông, một số qua Hóc Môn, số khác cơ động nhanh qua lộ 2, xuống quốc lộ 22, vào thành phố Sài gòn đúng như kế hoạch đã định, phối hợp tác chiến cùng các mũi tấn công khác cũng vừa tới nơi.
Trung đoàn quyết thắng xuất phát từ Củ Chi ngày 28-4-1975, làm nhiệm vụ vu hồi phía sau địch, sẵn sàng chặn đánh địch rút chạy về Sài Gòn. Cảnh tượng bọn ngụy thua chạy thật hỗn loạn. Những tên ở Đồng Dù nhào ra luống cuống đâm cả vào thép gai, mìn nổ làm chết một số, thằng nào còn sống sót thì vội lột cả quân phục, vứt hết súng đạn, cùng với số tên bị quân ta đánh ở tiểu khu Hậu Nghĩa vừa trống thoát đến Củ Chi, cùng nhau cố chạy trối chết về phía Thành phố. Trên quốc lộ 22, giầy, mũ quần áo, ba lô của lính nguỵ ngổn ngang làm cản trở cả lưu thông.
Trước sức mạnh của lực lượng Cách mạng, hệ thống ngụy quyền xã, ấp cùng bọn bảo an , phòng vệ dân sự đều buông súng bỏ chạy. lúc này, lực lượng quần chúng cùng kết hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ nổi dậy cướp chính quyền về tay mình. Song song theo đó, các đại đội địa phương Củ Chi, xuất phát từ căn cứ rừng làng xã An Nhơn Tây chia thành 3 mũi, phối hợp cùng lực lượng mật bên bên trong và quần chúng tại chỗ tiến thẳng vào thị trấn Củ Chi, chi khu Phú Hoà và trung tâm huấn luyện Trung Hoà. Đúng 13 giờ ngày 29-4-1975, khí thế tưng bừng như vũ bão, lực lượng ta hấu hết làn chủ ở các xã. Cờ giải phóng tung bay khắp nơi.
Trong cuộc tấn công nổi dậy cùng ngày, quân dân Củ Chi vừa tác chiến trên khắp địa bàn Huyện, vừa phối hợp với quân chủ lực, thu dọn căn cứ Đồng Dù, vừa phối hợp với lực lượng bạn tiếp quản Hóc Môn. Tiến về Sài gòn – Trung đoàn Đất thép đã hỗ trợgiải phóng, tiếp quản quận Bình Hoà và Thạnh Mỹ Tây, sau đó trung đoàn được tăng cường, chốt giữ các nơi trong hai quận Bình Hoà và Thạnh Mỹ Tây. để tăng cường quản lý tình hình an ninh, trật tự xã hội, cán bộ của Huyện Củ Chi cũng được phân công về các phường của hai quận nói trên. Sau khi tiếp quản, trung đoàn Đất Thép được chuyển thành trung đoàn 2 Gia Định (thời gian sau 30-4-1975, trung đoàn trên rút toàn bộ chuyển thành lực lượng công an vũ trang, làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia). Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, lực lượng dân quân Củ Chi đã đạt được những thành tích như sau: giết và làn bị thương 47 tên địch, bắt sống 347 tên khác, trong đó có 25 sĩ quan từ cấp úy đến cấp tá, thu 579 súng cỡ lớn (pháo và cối) cùng với 10.795 súng các loại. Tên quận trưởng và quận phó phải giơ tay đầu hàng. Những ngày hôm sau, 12.600 binh sĩ ngụy ra trình diện tại quận.
Tuy rằng bao giờ cũng tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng, thế mà khi chiến thắng đến một cách đột ngột, mọi người đều vui sướng tột độ. Người ta ôm nhau hôn, cười cười, nói nói và cũng có khóc nữa, khóc vì chiến tranh đã chấm dứt, đã hết những ngày gian nan khổ cực, chết chóc; khóc vì hạnh phúc đã giành lại được. Ngày ấy cũng có mặt má Nguyễn Thị Rành nhà ở ấp Phước Hoà, xã Phước Hiệp. Suốt hai thời kỳ kháng chiến, má luôn nêu cao tinh thần người mẹ Việt Nam tần tảo nuôi con, động viên con cháu sẵn sàng chiến đấu, hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tám người con trai, được sự giáo dục động viên của má, đã chiến đấu anh dũng trong trong hai cuộc kháng chiến và tất cả đã hy sinh cho sự nghiệp cách mạng. Đây là một sự mất mát lớn của má, nhưng lại được cái chung, cái to lớn cho đất nước: giải phóng quê hương, giải phóng nước nhà. Chính vì thế, má lại tiếp tục nuôi dạy và động viên hai cháu nội và một cháu ngoại đi bộ đội, trong đó có 2 cháu đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Suốt đời mình. Má đã nhiều lần tham gia trực diện đấu tranh với địch, kiên cường bám trụ, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, bom đạn ác liệt của quân thù. Nhà của má là cơ sở tạm trú cho cán bộ và chiến sĩ ta qua lại làm nhiệm vụ, nắm tình hình địch. Má hết lòng chăm sóc, giúp đỡ cán bộ, chiến sĩ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Đến ngày giải phóng, vì vui sướng và mừng rỡ khôn tả, má khóc, má nói: “Đứt 10 khúc ruột đau quá, các con cho má khóc một lần, chỉ một lần thôi” và Củ Chi còn biết bao nhiêu bà mẹ như thế, kể sao cho xiết.
Như vậy, trong cuộc đọ sức cuối cùng, nhân dân Củ Chi đã thắng. Huyện Củ Chi hoàn toàn giải phóng chiều ngày 29-4-1975 do quần chúng nhân dân cướp chính quyền về tay mình, khi lực lượng chủ lực đánh chiếm Đồng Dù. Nếu như trong Cách mạng tháng Tám nhân dân Củ Chi cùng Hóc Môn cướp chính quyền trước một ngày để đưa lực lượngvào tiếp ứng nhân dân thành phố, thì mùa xuân năm 1975 quân dân Củ Chi cũng giải phóng quê hương mình trước một ngày, mở toang cửa ngõ Tây Bắc và góp sức cùng bộ đội ta tiến vào giải phóng Sài Gòn. Quân dân Củ Chi đã đạt thắng lợi, bằng sức mạnh của quê hương, trải qua một quá trình thử thách lâu dài, gay go quyết liệt. Sức mạnh đó đã tăng lên gấp bội vào giai đoạn kết thúc. đó là sự cống hiến có ý nghĩa và tác dụng sâu xa với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Ngày 4-3-1975, ở Trung Hoà bọn lính ăn nhậu đánh lộn với nhau, dùng lựu đạn làm chết một bà lão ở Sa Nhỏ (Trung Lập Thượng) xuống Trung Hoà thăm bà con. Lập tức quần chúng ở đây, trên 50 người khiêng xác bà lão đến bọn tề ấp, xã đấu tranh, buộc chúng làm chứng, rồi khiêng thẳng xuống Củ Chi tố cáo địch đòi bồi thường nhân mạng, cuôc đấu tranh ngày càng đông , có cả 100 người, buộc tên quận trưởng phải bồi thường 150.000 đồng (tiền ngụy cũ) và bỏ tù tên lính ném lựu đạn, ở xã Thái Mỹ, địch chủ trương vét kênh từ cầu An Hạ lên tới Trảng Bàng, ngày 6-3-1975, bọn cai thầu đã đem quân dân Việt kiều tới ấp chiến lược Bình Hạ gởi mỗi gia đình 6-7 người để đi vét kênh, đồng thời quan hệ với tên trưởng ấp, mướn thanh niên ở đây đi vét. Chúng bắt đầu làm từ Cầu Lớn ( Thái Mỹ) đến Gò Ông Dưỡng xã An Tịnh (gần chỗ bám trụ của ta), xã ủy Thái Mỹ lập tức tổ chức đột nhập vào ấp phát động quần chúng: phát loa ngăn cấm, viết bảng tử địa, gài trái, mìn ở lòng kênh để ngăn chặn không cho địch làm, đồng thời bắt tên thầu khoán giải về huyện.
Ngày 7-3-1975, ở Trung Hoà, địch tổ chức đón đường, ruồng xét bắt thanh niên đi lính, lập tức trên 50 quần chúng từ các dãy nhà tỏa ra bao vây bọn lính, đấu tranh giành giựt con em quyết liệt với địch. Buộc tề ấp, xã cũng đi với họ xuống tận dinh quận đấu tranh, đòi thả con em họ ra, vì không có pháp luật nào bắt thanh niên chưa tới tuổi đi lính. Cuộc đấu tranh thắng lợi, buộc địch phải thả 30 thanh niên ở Trung Hoà.
Đêm 8-3-1975, bộ đội địa phương huyện tấn công bót Cây Bài, ta đã mở được cửa, chiếm lô cốt đầu cầu, diệt 2 tên phòng vệ xung kích, làm bị thương 5 tên. Sau khi rút ra, đến 4 giờ sáng, có 10 gia đình phòng vệ dân sự, được sự lãnh đạo của cơ sở ta, nổi đèn kéo đến bót đòi tìm xác chồng, con khóc la, tố cáo tên trưởng ấp, địch vịn cớ trời tối không cho vào, 10 gia đình nói trên đạp hàng rào càn vô, làm cho bọn còn lại hoang mang, hứa chờ sáng giải quyết. Khí thế đấu tranh của quần chúng lúc bấy giờ hết sức quyết liệt, họ chửi mắng bọn ác ôn liên tục. Họ đòi trả chồng, com; mạng phải đền mạng, chư không được đền tiền. Suốt ngày hôm sau, quần chúng ấp Cây Bài bàn tan công khai, tác động không sợ địch, ngay hôm sau đó, số phòng vệ xung kích bỏ súng không đi gác, đặc biệt có 2 phòng vệ trốn ra vùng ta.
Cùng đêm 8-3-1975, an ninh vũ trang huyện kết hợp cùng lực lượng của khu, xã, du kích Tân An Hội và C7, C25 tổ chức tập kích vào trung tâm chi khu Củ Chi và chi cảnh sát, làm sập 2 lô cốt, diệt 3 tên trong đó có 1 tên ác ôn phụ trách 4 xã theo lộ 22. Cùng lúc pháo kích vào cụm pháo ở Lào Táo, phân chi khu Thái Mỹ, Bàu Tre, Trung Hoà, Đồng Dù. Nhịp nhàng với tấn công san bằng đồn bót, diện bao vây bắn tỉa của du kích trong thời gian này cũng đang siết chặt một số bót: Trung Hưng xã Trung Lập Thượng, Cây Me xã Phú Hoà Đông, Bàu Giang xã Trung An, làm cho địch không dám treo cờ, sợ pháo hích, không đi trên lộ sợ bắn tỉa, không đi lấy nước uống được.
Song song với những hoạt động tấn công địch, khâu diệt ác phá kềm trong thời gian này cũng có kết quả, an ninh võ trang huyện táo bạo hoá trang đột nhập vào Trung Hoà giữa ban ngày diệt 1 cảnh sát, 1 bìnhl định, tập kích vào thị trấn Củ Chi giết chết 3 tình báo ban hai, công đồn làm bị thương nặng tề ấp Cây Bài và trang bị súng hãm thanh cho du kích mật diệt ác ở Tân Thạnh Tây. Chỉ riêng xã Trung Lập Thượng, ta đã vào ấp phát động được 11 cuộc, có 161 quần chúng, tuyên truyền lẻ tẻ 56 người , mở một cuộc hôi nghi gia đình binh sĩ , bàn cách đưa con em trở về hoặc tham gia hành động cách mạng. Kết quả có 23 gia đình binh sĩ học tập, sau đó phát động 3 gia đình hứa sẽ vận động chồng con lập công về với cách mạng.
Sáng ngày 9-3-1975, bọn địch ở Tân Quy đưa đại đội 314 đặc nhiệm đến lấy xác tại Cây Bài, bị ta chặn đánh diệt 1 trung đội, thế là cả đại đội chỉ còn 12 tên sót lại, chạy về ấp chiến lược Phước Vĩnh An. Trong lúc lúc địch hốt quân đi tiếp viện, số gia đình binh sĩ ở Bình Dương, Tân Quy đều lo sợ, nghe súng nổ, họ kéo đến Tân Quy trên 30 người đấu tranh với tên quận trưởng, buộc phải dẫn họ vô kiếm xác. Quần chúng buộc nó không được bắm pháo nữa, chúng hứa chấp nhận, gia đình binh sĩ tổ chức người, xe đạp, xe honda đi và trận địa kiếm xác, được cơ sở ta hướng dẫn đi vào, cứ thỉnh thoảng chở ra từng xác người để tác động địch, làm cho chúng hết sức hoang mang, quần chúng phấn khởi kéo đến xem hàng trăm người. Có 1 bà lão tìm được xác con, mượn xe gắn máy kéo ra dọc đường, bà gào thét tố cáo, tố cáo quân tàn ác “bây bắt con tao đi vào đó chết, rổi bỏ thây con tao, nếu không co` bà con giúp đỡ, làm sao tao thấy mặt con tao ? Vởy mà bây nói thắng ! ở đây sát quận mà bây còn thua”. Điều này làm cho nhiều binh sĩ xúc động nói: “ở đây còn thua mà nó kêu mình đi giải toả Bình Long”. Khi về nhà, bà mẹ binh sĩ chặt 3 khúc tầm vông để trước cửa, bà nói : “thằng quận nào tới đây tao đôi mạng”. Khí thế quần chúng ở Tân Quy suốt 2 ngày bỏ công ăn việc làm, tụm năm tụm bảy không sợ địch, có mặt công an, tề, lính họ cũng nói “Việt Cộng” thắng, quốc gia thua bỏ xác không dám lấy thây. Có ông già nói với tên lính “Qua như em là qua trốn mất”, tên lính hỏi tại sao, ông già nói “chớ em không thấy sao, khi sống thì nó bắt em đi ruồng bố, khi thua trận nó kêu pháo hủy diệt không kể gì tính mạng binh lính, chết thì nó bỏ thây”. Tên lính cúi đầu làm thinh không nói, quần chúng tấm tắc hoan nghênh, bí mật vận động đường sữa gởi ra cho bộ đội, không khí vô cùng phấn khởi. Súng đang nổ, quần chúng tràn ra coi, reo hò cảm kích, nhiều em bé vỗ tay khi thấy ta rượt địch (có lúc khoảng 200 quần chúng).
Ngày 11-3-1975, được cơ sở ta giáo dục, 13 gia đình binh sĩ ở Suối Cụt xã Phước Thạnh có con em bị địch bắt đi tiếp viện ở Tây Ninh, đến bao vây máy bay tên đại tá vừa đáp xuống ở Suối Cụt, quần chúng đấu tranh, đòi địch phải đem con em họ về, tên đại tá khoát tay không cho vào, quần chúng xông tới, buộc tên này phải lên Tây Ninh để tìm chồng, con em họ. Hoảng sợ trước khí thế đấu tranh của quần chúng, tên đại tá lên máy bay chuồn thẳng. Trong thời gian này cũng có 300 lượt quần chúng đấu tranh tại chỗ với bọn tề xã, yêu cầu chúng không được bắn cối để bà con ra đồng làm ruộng.
Chiến thắng dồn dã khắp nơi lan nhanh về Củ Chi, quần chúng ở đây rất xôn xao, bàn bạc thời sự, nhất là quần chúng ở các ấp chiến lược phía Nam, họ nói đánh chiếm Buôn Mê Thuộc, Dỗu Tiếng…Đánh ban ngày ở lộ 8, đồng bào rỉ tay nhau “Quốc gia bất lực hơn Mậu Thân nữa”, chỗ này địch thất bại, chỗ kia địch mất, thằng quận trưởng hoang mang giao động, khí thế cách mạng rất sôi nổi, tác động trước mặt địch. Khắp nơi quần chúng phấn khởi bàn bạc, nhận định: ta sẽ đánh lớn, họ rủ nhau chôn cất lúa gạo, tài sản, kêu bọ tề ấp và phòng vệ dân sự đến chôn lúa gạo phụ, qua đó tác động bọn này hay là ta sắp tấn công.
Nhiều đồn bót lẻ tẻ trong huyện tiếp tục hoang mang, ban đêm rút ra khỏi đồn, trốn ngủ bên ngoài, ở một số nơi khác. địch buộc quần chúng phải chặt tầm vông, tre để rào đồn, ấp như ở tua Hậu Thạnh. Quần chúng đấu trnh không chịu làm với lý do: sợ ta gài trái. địch phải tự làm lấy.
Trong thời gian này, địch đã thực hiện âm mưu tìm bắt những quần chúng tình nghi là có quan hệ với cách mạng, để đánh phá cơ sở của ta, đồng thời ngăn chặn phong trào tấn công, nổi dậy. Cụ thể, đã bắt 19 người ở các ấp chiến lược xã Phước Hiệp, Phước Thạnh. ở Trung Hoà, địch trắng trợn bắt thanh niên đi lính và ở xã Phước Vĩnh An, địch có âm mưu bắt phòng vệ canh gác lại, đưa phòng vệ lên Củ Chi học tình báo đại chúng. Nhưng với nhiều lý lẽ khác nhau, quần chúng đã đấu tranh với địch không chịu đi học, âm mưu này của địch bị thất bại. Đặc biệt về phía quân sự, đại bộ phận bọn chủ lực rút đi không còn ở chiến trường Củ Chi, chỉ còn lại các tiểu đoàn bảo an như 320, 321, 314, 319, 305 và bọn phòng vệ dân sự. Thời cơ này rất thuận lợi để du kích và bộ đội địa phương tấn công diệt địch.
Ngày 21-3-1975, thành đội Sài gòn- Gia Định chỉ huy tiểu đoàng Quyết Thắng cùng với bộ đội địa phương và du kích lập trận địa phục kích đoàn xe tải của ngụy tiếp viện cho chiến trường Tây Ninh. Trận địa kéo dài từ Bàu Tre đến Cây Trôm trên quốc lộ 22. Kết quả quân giải phóng diệt 51 xe tải, 2 xe tăng, bắn bị thương 1 trực thăng, diệt 4 đại đội ngụy, đánh thiệt hại 3 đại đội bảo an khác, bẻ gãy kế hoạch tiếp viện của địch.
Cuối tháng 3 đầu tháng 4 năm 1975, ở Củ Chi , Huyện ủy đã triển khai xong trong nội bộ về tinh thần cơ bản ccủa chỉ thị 304 và Đảng văn 76/TW. Vừa triển khai vừa đẩy mạnh các mặt tấn công địch theo Nghị quyết 15 của Huyện.
Bước vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử tháng 4 năm 1975, để giải phóng Sài gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, Huyện Củ Chi đã dốc toàn bộ lực lượng cho chiến dịch “khí thế như Mậu Thân, tấn công như năm 1972, nổi dậy như Đồng Khởi”. Đó là khẩu hiệu hành động của Huyện ủy Củ Chi lúc bấy giờ. Điểm nổi bật nhất của Huyện lúc này là khi được lệnh của Trung ương và khu ủy , theo chủ trương của trên nhiệm vụ của Củ Chi, không chỉ riêng giải phóng Huyện nhà, mà phải cùng với cả nước, tham gia giải phóng Thành phố. Do yêu cầu bức thiết đó, phân khu ủy trực tiếp là đồng chí Nguyễn Bá Niên, chỉ đạo cho Củ Chi thành lập một trung đoàn. Trung đoàn có 3 tiểu đoàn: tiểu đoàn 1 bao gồm 3 đại đội hiện có của Củ Chi là C 25, C7, C3, tiểu đoàn 2 chủ yếu là lực lượng được tuyển t72 các cơ quan, ban ngành củ Huyện, lấy quân y Củ Chi làm quân y trung đoàn. Thế là trong vòng chỉ 15 ngày đã thành lập 1 trung đoàn lấy tên “Đất thép” được trang bị đầy đủ. Đ/c Nguyễn Văn Thắng, Phó Bí thư Huyện ủy, được cử làm Bí thư Đảng ủy, kiêm Chính ủy trung đoàn. Đồng thời lúc này đồng chí Nguyễn Văn Luân, Bí thư Huyện ủy cũng được rút về trên, phụ trách cánh quần chúng nổi dậy ở phía Bắc Gia Định. Trung đoàn có hơn 800 cán bộ chiến sĩ, trong đó có 400 Đảng viên, có đầy đủ các ban tham mưu, chính trị, hậu cần, quân y… gấp rút cho việc xuống đường giải phóng Sài gòn. Trung đoàn tập kết tại địa bàn xã An Phú, Phú Hoà Đông, Nhuận Đức. Không khí thật sôi nổi, các chiến sĩ học tập, trao đổi lẫn nhau về kỹ thuật tác chiến, thể hiện tinh thần phấn khởi, tự giác học tập trong toàn đơn vị. Trung đoàn có nhiệm vụ chiếm lĩnh toà hành chánh tỉnh Gia Định, hỗ trợ cho Gò Vấp, Bình Hoà, Thạnh Mỹ Tây cướp chính quyền.
Song song, Huyện còn cử một số đại đội tăng cường cho trung đoàn Quyết Thắng, rút thanh niên và cán bộ các xã lên thành lập 3 đại đội lấy tên là C3, C7 và C25, là đại đội được tổ chức thành một tiểu đoàn có nhiệm vụ giải phóng và tiếp quản Củ Chi.
Mở màn cho chiến dịch, ta bao vây các đồn Bàu Giang, Trung Hưng, Cây Me. Đột nhập ấp chiến lược Bình Hạ, Mỹ Khánh, Bình Thượng, Tân Thạnh Đông, Phú Hoà Đông, Phước Thạnh, Trung An, phát động 528 quần chúng nổi dậy phá hủy 40 tấm hình Thiệu và 10 bản khẩu hiệu phản động.
Nhiều cuộc đấu tranh chính trị cũng liên tiếp nổ ra. Tại Phước Hiệp, trên 200 gia đình đấu tranh tại chỗ, chống đàn áp khủng bố, chống vào ấp chiến lược, đòi được ở vườn đất cũ làm ăn. Đấu tranh hù nhác tác động địch, tạo thế, tạo lý đấu tranh. Kết quả quần chúng vẫn bám trụ vườn đất như cũ. Các xã Phước Hiệp. Phước Thạnh, Tân Thạnh Đông, Trung An, Tân Thạnh Tây, có hàng ngàn lượt quần chúng đấu tranh, chống chặt cây rào bót, chống mua thùng phi, làm xâu, đào hào, bằng nhiều hình thức lý lẽ như: bận làm ăn, không tiền mua thức ăn có đâu mua thùng phi. Có nhiều quần chúng, địch thu căn cước bắt làm xâu, thì bỏ giấy không đi làm. Cuối cùng địch phải đem trả lại. ở Tân Thạnh Đông, sau khi phát động quần chúng và rãi truyền đơn kêu gọi xa lánh đồn bót, phá ấp chiến lược trở về, đã có 15 gia đình cất nhà trên nền cũ và kéo cả tài sản ra ở luôn.
Tin chiến thắng dồn dập của ta ở các chiến trường và sự thất bại tháo lui của địch ở nhiều nơi, làm bọn địch ở Củ Chi hoang mang dao động đến cực độ, tinh thần hoàn toàn bị khủng hoảng, đến nỗi ngày 1-4-1975 bọn địch ở Trung Hoà, thấy xe bò của quần chúng kéo tài sản về Gò Nổi bụi đường bay lên, chúng tưởng là xe của ta chạy nên gọi máy bay L19 lên quần đảo và bắm pháo, làm hư 1 xe bò, 1 con bò chết và làm bị thương 1 em nhỏ. Tuy bọn trên cố ra sức thúc ép nhưng cũng không sao lấp được sự khủng hoảng tinh thần trong nội bộ lính ngụy ở địa phương.
Ngày 5-4-1975, một xe “Cam nhông” (xe tải) chở mía từ Tây Ninh đến Trảng Dài (Phước Hiệp) bị nổ bánh, làm 3,4 tên cảnh sát hốt hoảng quay xe chạy, ngỡ là bị ta tấn công. ở Phú Hoà Đông, có 2 ông lão dựa vào tin tức mà ta phổ biến, hoặc nghe được đã tuyên truyền, mỗi ngày từ 20 tên lính trở lên trong đó có sĩ quan ngụy, nói chung tâm lý của chúng ở đây cũng cầu an, mong sao được yên ổn trở về với gia đình, sơ chạm súng với ta.
Cuộc phát động khởi nghĩa, các xã Phú Mỹ Hưng, An Phú, An Nhơn Tây, Trung Lập Thượng , đã tập hợp thanh niên hình thành các đại đội trực chiến của xã, tổ chức những buổi ra quân, động viên cho phía trước, đã tạo nên một phong trào, một khí thế khởi nghĩa trong xóm ấp. Đảng viên, đoàn viên có một số, trước đây có tư tưởng chao đảo, nay cũng xốc vô và hứa hẹn sẵn sàng chấp nhận mọi sự phân công , để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Vụ thả bom ngày 8-1-1975 ở dinh Thiệu, bọn ngụy quyền ở Củ Chi ra lệnh giới nghiêm. Lô 8 từ Bình Dương qua Củ Chi chúng tăng cường cho lính gác dài theo lộ, cứ 10 met có 2 tên. Tinh thần tư tưởng địch ngao ngán, chuẩn bị cho thế thua. Bọn lính 323 (số này bại trận ở Phước Long đưa về) ở đổn Cây Me, mỗi tên đều mang một bộ dân phục, đẻ chuẩn bi ta tấn công là thay vào để chạy. Tên quận trưởng ở Củ Chi tuy bị lệnh bọn trên phải kiên quyết phòng thủ nhưng tâm tư nó thấy “không chắc ăn”, đã phát biểu bi quan : “làm thì làm chớ quận này nội cơ sở Việt cộng nó lấy cái một”. Tình hình quần chúng toàn huyện đang thành phong trào di tản của cải ra vùng giải phóng. Đồng bào tích cực đưa con em ra gởi cán bộ ta, đưa vô vùng giải phóng, gia nhập các tổ chức vũ trang.
Địch tiếp tục bắt quần chúng đắp mô trên các con lộ, đào các đường hào, để làm các chướng ngại chống tăng của ta, chặt tre gai, chà rào ấp chiến lược. Có một số nơi rào gần xong như Phước Vĩnh An, Thái Mỹ. Phòng vệ dân sự địch tiếp tục tan rã, một số nơi bị phá rã không tái lập được, địch tiếp tục duy trì lại tổ chức này nhưng quần chúng chống phá. Có một số nơi chỉ còn hình thức đi điểm danh mỗi buổi chiều có mặt rồi về không gác. Ta phát động được 234 quần chúng, trong đó có cả gia đình binh sĩ ngụy đều hứa hẹn khi có điều kiện là nổi dậy phá cá hình thức kềm kẹp của địch, bung liền về vùng giải phóng.
Quyết tâm của bộ chính trị là giải phóng miền Nam trước tháng 5- 1975. Đêm 10 vá 11- 4- 1975, Huyện ủy họp mở rộng, các ban ngành, các xã phổ biến lệnh của Bộ chính trị, bàn kế hoạch phân công bố trí cán bộ, đi vào thực hiện nhiệm vụ trên giao và ráo riết chuẩn bị chờ lệnh hợp đồng. Sau khi phổ biến chủ trương khởi nghĩa của trên, cán bộ và quần chúng ở những nơi được phổ biến đều hăng hái chuẩn bị. Nói chung ở các xã khí thế quần chúng rất phấn khởi và tán thành chủ trương của Huyện ủy.
Từ ngày 6-4 đến 13-4-1975, địch tăng cường đốt hoặc đánh phá địa hình dọc theo các lộ 22, lộ 8, lộ 7. Hằng ngày cho máy bay quần đảo trong vùng giải phóng, cho pháp bắn vào nơi chúng nghi là có lực lượng của ta.
Ngày 19-4-4975, Huyện ủy tổ chức hội nghị mở rộng các xã ủy, xã đội nhằm: kiểm điểm việc chuẩn bị của từng xã, bổ sung tinh thần chỉ đạo của trên và một số việc cần chỉ đạo tiếp theo. Các xã sẽ tổ chức họp kiểm tra lại phần chuẩn bị, đồng thlời xây dựng tư tưởng trong nội bộ Đảng viên, đoàn viên quần chúng. Tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi cuối cùng, giải quyết mọi tư tưởng nhận thức cũ, nghi ngờ, giải quyết tác phong chập chờn do dự, còn thấy khó khăn, để động viên sự nỗ lực cao nhất cho thắng lợi cuối cùng. Về tổ chức, mỗi xã phải nhanh chóng hình thành các tiểu ban: tiếp quản, tuyên truyền, đời sống, truy lùng, xây dựng khung chính quyền Cách mạng, xây dựng lực lượng. Vận động quần chúng tráng kiện, thanh niên nam nữ sẵn sàng đứng lên cầm súng, lấy súng địch trang bị tại chỗ và có thể đề nghị lãnh súng. Huấn luyện ngay cho cán bộ, chiến sĩ và quần chúng nắm lấy nắm vững những nội dung cơ bản của 10 điều kỷ luật, 10 chính sách đối với vùng mới giải phóng, chính sách binh vận 7 điểm, huấn luyện quần chúng tại chổ biết bắn súng và ném lựu đạn. Kiểm tra lại và chuẩn bị thêm như: cờ của ta và của quần chúng, loa phóng thanh mỗi ấp, xã. Thông báo chuẩn bị trống, mõ. Nắm danh sách ác ôn nguy hiểm. Điều nghiên kho tàng , hầm ngầm, giao nhiệm vụ thật cụ thể cho từng bộ phận, từng ấp, ai làm gì và làm gì tiếp theo ?
Địch tăng viện phòng thủ, tuyến lộ 22 ở Đồng Chùa, Phước An có 20 xe tăng và xe ủi, khoảng đường Bàu Tre – Tân An Hội có 12 xe, sau đó chuyển xuống Tân Thông Hội. Chúng thay lại đây một tiểu đoàn bảo an án ngữ, chặn đường, quân chủ lực nằm trên lộ 22 khoảng 1 trung đoàn. Cụm Đồng Chùa bọn chủ lực đến giữ, bọn bảo an về phòng tủ quanh chi khu Tân Quy. Để phòng thủ, chúng bung ra cho xe ủi, phá địa hình hai bên lộ 22 như vùng trắng Mũi Côn, Cây Trôm xã Phước Hiệp, Phước Lộc, xã Phước Thạnh. Ngày 20-4-1975, đoàn xe quân sự địch chở khoảng 1 tiểu đoàn chủ lực đến lộ 2 đổ xuống và 10 xe tăng càn qua Nhuận Đức, án ngữ ven Đồng Dù. ở căn cứ Đồng Dù, địch ủi âm xe dưới mặt đất và đào công sự để đối phó, tấn công ta. Tàu chiến ở Bình Dương hoạt động lên đến Rạch Miễu, Trung An, dùng M79 bắn phá hai bên bờ. ở Phú Hoà Đông, bọn công an, cảnh sát tiếp tục khống chế, đàn áp phong trào quần chúng, sục sao, xét phạt nhà nào dự trữ lương thực. Tâm trạng binh sĩ lo tính khi bị đánh làm gì để khỏi chết, thể hiện tư tưởng đầu hàng phản chiến, bọn tề xã đêm đến lo lẫn trốn chỗ khác không dám ở nhà.
Quần chúng phấn khởi bàn luận tình hình, ráo riết chuẩn bị chôn giấu tài sản và chuyển ra vùng giải phóng, phát động được 545 quần chúng, giáo dục hàng chục gia đình binh sĩ, rải dán cả ngàn tờ truyền đơn, khẩu hiệu và chánh sách 7 điểm.
Lực lượng vũ trang ta xuất kích nhiều nơi như ở Phú Hoà Đông, Xóm Mới (Trung Lập Hạ), Bàu Tép (Phước Vĩnh An), Tân Thạnh Đông, diệt và làm bị thương nhiều tên, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng, vận động rã ngũ 25 tên.
Ngày 21-4-1975, quân giải phóng đánh chiếm Xuân Lộc, coi như địa đầu tuyến phòng thủ Sài Gòn bị phá vỡ( tên Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống ngụy quyền đã phải từ chức và chuồn ra nước ngoài). Lúc này không khí chuẩn bị ở vùng giải phóng Củ Chi đã sôi nổi khác thường. Bộ phận tiền trạm của quân chủ lực đã về đây, công binh bắc cầu nổi tên sông Sài Gòn và làm đường cho bộ đội qua. Về đêm, xe cơ giới chạy rầm rập, tăng , pháo kéo dài xuống tận Nhuận Đức sát với Đồng Dù, pháo để rải rác khắp trong rừng, đạn chuyển nhanh cho các trạm. Đơn vị thông tin hối hả mắc các dây điện thoại . Dân công tải hàng, tải thương có đêm có trên trăm người, tấp nập ngược xuôi. Quần chúng cho mượn hàng chục ghe cả người, chèo cả ngày đêm, đưa bộ đội thương binh qua sông, làm xong một trường học mới, đào 16 công sự để tránh phi pháo. Những người cốt cáng, đảng viên, đoàn viên thuộc hệ thống quân sự và dân chính, được đưa ra ngoài để nghe phổ biến tình hình và nhận nhiệm vụ mới, chuẩn bị cho chiến dịch.
Lúc này Huyện ủy Củ Chi cũng khẩn trương tổ chức hội nghị , triển khai chỉ thị 03 về việc xây dựng chính quyền cách mạng và bổ sung về mặt tiếp tục chuẩn bị đi vào hợp đồng tấn công. Đã nhật trí thông qua danh sách ủy ban Nhân dân Cách mạng Huyện và 5 xã. Hàng nghìn lá cờ Mặt trận cỡ to, cỡ nhỏ được cấp tốc may sẵn để sư dụng khi tiếp quản các thị trấn và thành phố. Còn tình hình ở ấp chiến lược và vùng ven, địch rất hoang mang, tổ chức rệu rã, nhiều binh sĩ đào ngũ. Nghe tiếng máy cày, tưởng là xe tăng quân giải phóng đến, có đứa vội bỏ chạy. Nắm thời cơ, bộ đội địa phương và du kích bứt rút, bức hàng nhiều đồn bót. Nhân dân ấp chiến lược ở vùng địch kềm kẹp, vô cùng phấn khởi và náo nức đón chờ bộ đội về giải phóng, nhiều người được dịp bung về ngay về quê cũ, có gia đình cán bộ cán bộ ở ấp chiến lược gởi đồ đạc, tài sản ra vùng giải phóng, để tránh thiệt hại khi chiến sự xảy đến. Ai ai cũng quan tâm theo dõi thời sự, nhất là tin chiến sự hàng ngày, những người không đọc báo nghe đài bao giờ thì nay cũng tìm báo để đọc và chú ý nghe đài. Không khí nói chung, sôi nổi hơn cả hồi tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.
Ngày 26- 4- 1975, du kích Thái Mỹ diệt một bót mở đầu cho việc giải phóng xã ở Củ Chi, tiếp tục đến ngày 28-4-1975 đánh chiếm bót Bình Thượng. Theo kế hoạch đã định, sau 4 ngày chuẩn bị, 6 giờ chiều ngày 28-4-1975, trung đoàn “Đất thép” Củ Chi cùng với một trung đoàn chủ lực của binh đoàn 3 phía Tây Bắc, đã vu hồi phía trước qua lộ 8 chiếm hai đầu cầu: Cầu Bông (quốc lộ 22), Cầu Xáng (tỉnh lộ 15) và xã Tân Thạnh Đông.
Đúng 5 giờ 30 sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, cuộc tấn công căn cứ Đồng Dù bắt đầu. Trong 2 giờ liền, pháo của quân giải phóng bắn cấp tập trúng vào trận địa pháo của địch, làm cho hoả lực của địch yếu hẳn. kho xăng cũng trúng đạn, bốc cháy dự dội, sở chỉ huy của trung đoàn 50 cũng bị thiệt hại. Cùng lúc, quân giải phóng dùng bộc phá quét sạch lớp rào gai, phá thủng tường sắt, mở 3 cửa đột phá hướng Bắc- Tây Bắc và hướng Nam căn cứ. Sau đó bộ binh cùng xe tăng xung phong vào lúc 7 giờ 30. Quân địch vội đem xe tăng ra bịt các cửa đột phá. Cuộc chiến đấu của ta và địch rất ác lịêt diễn ra ở đây. Trướcsức tấn công áp đảo của quân giải phóng, quân ngụy vứt súng , cởi cả quần áo chạy thục mạng. Đúng 10 giờ 30 phút, quân giải phóng chiếm sở chỉ huy sư đoàn 25 ngụy, làm chủ hoàn toàn căn cứ Đồng Dù, bắt sống tại chỗ tên đại tá sư đoàn phó. Còn tên sư đoàn trưởng thì cùng một số tên lính , tháo chạy ra ngoài căn cứ về phía Tân Thạnh Tây, song cũng không thoát khỏi tay nhân dân. Lực lượng vũ trang và quần chúng tại chỗ , đã bắt giữ ngay Lý Tòng Bá, chuẩn tướng sư đoàn trưởng 25 ngụy. Trước khí thế tấn công của ta, bọn ngụy tháo chạy về hướng Tân Thạnh Đông, Tân quy và hoà Phú, số chống lại bị lực lượng du kích tại chỗ tiêu diệt hàng chục tên, số đông khác đầu hàng, được ta giáo dục tại chỗ hàng ngàn tên.
Ngay khi binh đoàn 3 đang đáng địch trong căn cứ Đồng Dù,thì trung đoàn “Đất thép” đã đột kích, ém quân ở Tân Thạnh Đông, một số qua Hóc Môn, số khác cơ động nhanh qua lộ 2, xuống quốc lộ 22, vào thành phố Sài gòn đúng như kế hoạch đã định, phối hợp tác chiến cùng các mũi tấn công khác cũng vừa tới nơi.
Trung đoàn quyết thắng xuất phát từ Củ Chi ngày 28-4-1975, làm nhiệm vụ vu hồi phía sau địch, sẵn sàng chặn đánh địch rút chạy về Sài Gòn. Cảnh tượng bọn ngụy thua chạy thật hỗn loạn. Những tên ở Đồng Dù nhào ra luống cuống đâm cả vào thép gai, mìn nổ làm chết một số, thằng nào còn sống sót thì vội lột cả quân phục, vứt hết súng đạn, cùng với số tên bị quân ta đánh ở tiểu khu Hậu Nghĩa vừa trống thoát đến Củ Chi, cùng nhau cố chạy trối chết về phía Thành phố. Trên quốc lộ 22, giầy, mũ quần áo, ba lô của lính nguỵ ngổn ngang làm cản trở cả lưu thông.
Trước sức mạnh của lực lượng Cách mạng, hệ thống ngụy quyền xã, ấp cùng bọn bảo an , phòng vệ dân sự đều buông súng bỏ chạy. lúc này, lực lượng quần chúng cùng kết hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ nổi dậy cướp chính quyền về tay mình. Song song theo đó, các đại đội địa phương Củ Chi, xuất phát từ căn cứ rừng làng xã An Nhơn Tây chia thành 3 mũi, phối hợp cùng lực lượng mật bên bên trong và quần chúng tại chỗ tiến thẳng vào thị trấn Củ Chi, chi khu Phú Hoà và trung tâm huấn luyện Trung Hoà.
Đúng 13 giờ ngày 29-4-1975, khí thế tưng bừng như vũ bão, lực lượng ta hấu hết làn chủ ở các xã. Cờ giải phóng tung bay khắp nơi. Trong cuộc tấn công nổi dậy cùng ngày, quân dân Củ Chi vừa tác chiến trên khắp địa bàn Huyện, vừa phối hợp với quân chủ lực, thu dọn căn cứ Đồng Dù, vừa phối hợp với lực lượng bạn tiếp quản Hóc Môn. Tiến về Sài gòn – Trung đoàn Đất thép đã hỗ trợgiải phóng, tiếp quản quận Bình Hoà và Thạnh Mỹ Tây, sau đó trung đoàn được tăng cường, chốt giữ các nơi trong hai quận Bình Hoà và Thạnh Mỹ Tây. để tăng cường quản lý tình hình an ninh, trật tự xã hội, cán bộ của Huyện Củ Chi cũng được phân công về các phường của hai quận nói trên. Sau khi tiếp quản, trung đoàn Đất Thép được chuyển thành trung đoàn 2 Gia Định (thời gian sau 30-4-1975, trung đoàn trên rút toàn bộ chuyển thành lực lượng công an vũ trang, làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia). Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, lực lượng dân quân Củ Chi đã đạt được những thành tích như sau: giết và làn bị thương 47 tên địch, bắt sống 347 tên khác, trong đó có 25 sĩ quan từ cấp úy đến cấp tá, thu 579 súng cỡ lớn (pháo và cối) cùng với 10.795 súng các loại. Tên quận trưởng và quận phó phải giơ tay đầu hàng. Những ngày hôm sau, 12.600 binh sĩ ngụy ra trình diện tại quận.
Tuy rằng bao giờ cũng tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng, thế mà khi chiến thắng đến một cách đột ngột, mọi người đều vui sướng tột độ. Người ta ôm nhau hôn, cười cười, nói nói và cũng có khóc nữa, khóc vì chiến tranh đã chấm dứt, đã hết những ngày gian nan khổ cực, chết chóc; khóc vì hạnh phúc đã giành lại được. Ngày ấy cũng có mặt má Nguyễn Thị Rành nhà ở ấp Phước Hoà, xã Phước Hiệp. Suốt hai thời kỳ kháng chiến, má luôn nêu cao tinh thần người mẹ Việt Nam tần tảo nuôi con, động viên con cháu sẵn sàng chiến đấu, hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tám người con trai, được sự giáo dục động viên của má, đã chiến đấu anh dũng trong trong hai cuộc kháng chiến và tất cả đã hy sinh cho sự nghiệp cách mạng. Đây là một sự mất mát lớn của má, nhưng lại được cái chung, cái to lớn cho đất nước: giải phóng quê hương, giải phóng nước nhà. Chính vì thế, má lại tiếp tục nuôi dạy và động viên hai cháu nội và một cháu ngoại đi bộ đội, trong đó có 2 cháu đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Suốt đời mình. Má đã nhiều lần tham gia trực diện đấu tranh với địch, kiên cường bám trụ, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, bom đạn ác liệt của quân thù. Nhà của má là cơ sở tạm trú cho cán bộ và chiến sĩ ta qua lại làm nhiệm vụ, nắm tình hình địch. Má hết lòng chăm sóc, giúp đỡ cán bộ, chiến sĩ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Đến ngày giải phóng, vì vui sướng và mừng rỡ khôn tả, má khóc, má nói: “Đứt 10 khúc ruột đau quá, các con cho má khóc một lần, chỉ một lần thôi” và Củ Chi còn biết bao nhiêu bà mẹ như thế, kể sao cho xiết.
Như vậy, trong cuộc đọ sức cuối cùng, nhân dân Củ Chi đã thắng. Huyện Củ Chi hoàn toàn giải phóng chiều ngày 29-4-1975 do quần chúng nhân dân cướp chính quyền về tay mình, khi lực lượng chủ lực đánh chiếm Đồng Dù. Nếu như trong Cách mạng tháng Tám nhân dân Củ Chi cùng Hóc Môn cướp chính quyền trước một ngày để đưa lực lượngvào tiếp ứng nhân dân thành phố, thì mùa xuân năm 1975 quân dân Củ Chi cũng giải phóng quê hương mình trước một ngày, mở toang cửa ngõ Tây Bắc và góp sức cùng bộ đội ta tiến vào giải phóng Sài Gòn. Quân dân Củ Chi đã đạt thắng lợi, bằng sức mạnh của quê hương, trải qua một quá trình thử thách lâu dài, gay go quyết liệt. Sức mạnh đó đã tăng lên gấp bội vào giai đoạn kết thúc. đó là sự cống hiến có ý nghĩa và tác dụng sâu xa với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.